MC xin kính chào quý vị. Trong chương trình hôm nay của “Phân tích và Bình luận”, chúng ta sẽ cùng tiên sinh Văn Chiêu giải mã những tín hiệu chính trị phức tạp nhất, vén bức màn bí ẩn đằng sau cánh cửa mật thất Bắc Đới Hà. Từ những cơn bão ngầm trong quân đội, đến những mật mã quyền lực cốt lõi của ĐCSTQ, và áp lực kinh tế từ bên ngoài đang dồn ép chế độ đến chân tường. Một ván cờ tàn khốc đang đi đến hồi kết. Và sự thật về một kỷ nguyên quyền lực có thể đang đến hồi kết.

Thưa quý vị, đầu tháng 8 năm 2025, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) một lần nữa lại bước vào “mật thất” chính trị của mình. Về mặt chính thức, vào ngày 3 tháng 8, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Thái Kỳ đã đến Bắc Đới Hà để thăm hỏi các chuyên gia đang trong kỳ nghỉ hè, một hành động mang tính biểu tượng, đánh dấu sự khởi đầu của Hội nghị Bắc Đới Hà. Trước đó, đã có những tin đồn lan truyền rằng năm nay, ông Tập Cận Bình sẽ phá lệ và không đến Bắc Đới Hà, dường như ông có thể thoát khỏi căn phòng bí mật đầy những cuộc đấu đá và thỏa hiệp này. Nếu ông thực sự không đi, đó sẽ là một hành động phá vỡ thông lệ, và một nhà lãnh đạo có thể không tuân theo thông lệ đương nhiên là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ. Nếu ông ta thực sự có thể không đi, điều đó ngược lại sẽ là một bằng chứng cho thấy ông đang nắm chắc quyền lực trong tay.

Nhưng cuối cùng, Tập Cận Bình đã thực sự đi. Sau khi chủ trì buổi tọa đàm với các nhân sĩ ngoài đảng vào ngày 31 tháng 7, ông đã biến mất khỏi công chúng và một lần nữa bước vào chế độ “ẩn mình”. Trong những ngày qua, ông chỉ “xuất hiện” một cách gián tiếp qua các hình thức như gửi lệnh khen thưởng, phát biểu bằng văn bản, và gửi điện mừng. Trong số các quan chức cấp cao của ĐCSTQ, người cuối cùng đến Bắc Đới Hà có lẽ là Triệu Lạc Tế, người có chuyến thăm Thụy Sĩ kéo dài đến tận ngày 31 tháng 7 mới kết thúc.

Phải chăng một cuộc đảo chính cung đình đã diễn ra trong im lặng, và chúng ta đang chứng kiến những màn diễn cuối cùng của một vở kịch hạ màn? Liệu một hệ thống đã vận hành dưới bóng của một người suốt một thập niên có đang tự mình “rút phích cắm” để cứu lấy chính nó?

PHẦN 1: BÃO NGẦM TRONG QUÂN ĐỘI VÀ SỰ IM LẶNG CHẾT CHÓC

Thưa quý vị, có một dấu hiệu khác cũng cần được phân tích một cách kỹ lưỡng. Ngày 1 tháng 8 là kỷ niệm 98 năm ngày thành lập Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Theo thông lệ, Bộ Quốc phòng đã tổ chức một tiệc chiêu đãi long trọng để mừng ngày thành lập quân đội tại Đại lễ đường Nhân dân. Tuy nhiên, một số phương tiện truyền thông Hồng Kông đã tinh ý nhận ra rằng có tới bảy thượng tướng đã vắng mặt một cách bất thường, bao gồm Tư lệnh và Chính ủy của Lực lượng Cảnh sát Vũ trang, cùng với Tư lệnh và Chính ủy của Hải quân.

Đây đều là những nhân vật hàng đầu của quân đội, những người mà theo lý, không thể và không nên vắng mặt trong một sự kiện có quy mô và ý nghĩa quan trọng như vậy. Nhưng họ thực sự đã không đến. Điều đáng nói hơn, hai hệ thống này – Cảnh sát Vũ trang và Hải quân – lại chính là những lĩnh vực mà cựu Chủ nhiệm Tổng cục Công tác Chính trị của Quân ủy Trung ương, Miêu Hoa, đã từng gây dựng ảnh hưởng sâu sắc. Sự vắng mặt tập thể này không thể là ngẫu nhiên. Nó cho thấy một điều duy nhất: cuộc thanh trừng khốc liệt bên trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vẫn chưa kết thúc. Cơn bão vẫn đang tiếp diễn.

Hơn nữa, nếu chúng ta so sánh nội dung trang nhất của tờ Nhân Dân Nhật Báo vào ngày 1 tháng 8 trong bốn năm qua, chúng ta sẽ thấy một xu hướng đáng lo ngại. Vào ngày 1 tháng 8 năm nay, sự thể hiện của ông Tập Cận Bình là khiêm tốn nhất. Ông cũng không tổ chức lễ thăng quân hàm thượng tướng trước ngày thành lập quân đội như thường lệ. Trên thực tế, trong cả năm 2025 cho đến nay, chưa có một lễ thăng quân hàm thượng tướng nào được tổ chức. Trong khi đó, năm 2024 lại diễn ra rất thường xuyên, với ba đợt thăng quân hàm thượng tướng vào tháng 3, tháng 7 và tháng 12.

Có bạn có thể hỏi, liệu việc thăng quân hàm thượng tướng của PLA có phải nên diễn ra hàng năm không? Trong tình hình bình thường, đúng là nên có hàng năm. Dữ liệu công khai của PLA rất hạn chế, nhưng các thống kê trong hai mươi năm qua cho thấy trung bình mỗi năm có từ năm đến bảy thượng tướng nghỉ hưu. Do đó, trong tình hình bình thường, cần phải có các đợt thăng quân hàm để thay thế.

Tình hình bất thường là khi ngoài việc nghỉ hưu, còn có các cuộc đấu đá quyền lực, và phải cộng thêm các thượng tướng bị cách chức. Vì vậy, trong những năm bất thường, số lượng vị trí trống cần lấp đầy còn nhiều hơn. Mọi người có thể thấy rằng có những năm PLA thăng quân hàm thượng tướng đặc biệt nhiều, có năm có vài đợt, đó là vì số lượng thiếu hụt do nghỉ hưu và cách chức từ các năm trước đã tích tụ lại. Cần phải có đủ thời gian để xem xét, cần có sự chuẩn bị về điều động nhân sự, và cân bằng các mối quan hệ ở các vị trí hiện tại, thì mới có thể có một đợt thăng quân hàm mới. Điều này dẫn đến việc một số năm số lượng thăng quân hàm sẽ nhiều hơn các năm trước.

Còn tình hình năm 2025 thì hoàn toàn ngược lại, cho đến tháng 8 vẫn chưa có một đợt thăng quân hàm nào. Đây lại là một bằng chứng nữa cho thấy PLA đang ở trong một trạng thái bất thường sâu sắc. Những việc đã được phân tích ở trên đều đang diễn ra. Thực ra, nó giống như những hình chiếu của ánh đèn lên tường, chúng ta chỉ có thể phân tích một số dấu hiệu và tín hiệu, chứ không có bằng chứng thực tế.

Nhìn từ góc độ ngược lại, ít nhất ông Tập Cận Bình đã không thể hiện một cách mạnh mẽ sự kiểm soát của mình đối với quân đội trước thềm Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay. Trong bối cảnh tin đồn đang lan tràn, thái độ này ít nhất cũng có thể được coi là không tích cực.

PHẦN 2: VÒNG VÂY KINH TẾ VÀ ĐỒNG HỒ ĐẾM NGƯỢC CỦA TRUMP

Hơn nữa, còn có áp lực từ môi trường bên ngoài đối với ĐCSTQ. Dự kiến từ tháng 8, một số nền kinh tế lớn chưa ký kết hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, như Canada và Ấn Độ, vốn đang bị chính quyền Trump nhắm đến, sẽ phải đẩy nhanh tốc độ “nhún nhường” và sớm đạt được thỏa thuận với Hoa Kỳ.

Như vậy, khi mùa hè năm nay qua đi, tình thế ĐCSTQ bị cô lập trong môi trường kinh tế quốc tế sẽ càng trở nên rõ nét hơn. Do đó, dự báo về rủi ro kinh tế và tài chính đã thay đổi. Rất có thể trong nửa cuối năm nay, tình hình kinh tế Trung Quốc sẽ có một sự thay đổi nhanh chóng và đột ngột, đây là một vấn đề vô cùng cấp bách đối với ĐCSTQ hiện nay. Cuộc chiến tranh thuế quan toàn cầu của Tổng thống Trump đang nhanh chóng phát triển theo hướng mà ĐCSTQ không mong muốn nhất: đó là ĐCSTQ cuối cùng bị tách riêng ra, các quốc gia khác đều đã đạt được thỏa thuận, còn ĐCSTQ bị để lại giải quyết sau cùng, trở thành một thế cục bị bao vây.

Quay lại trọng tâm hôm nay, lãnh đạo Tập Cận Bình không thể thoát khỏi mật thất Bắc Đới Hà, năm nay lại phải đến Bắc Đới Hà, thì Bắc Đới Hà sẽ vừa là “hội” (tức hội họp) vừa là “ý” ( tức ý đồ), và không phải là ý đồ nhỏ. Ông Tập Cận Bình sẽ phải đối mặt với các nguyên lão từ các khóa trước. Vấn đề chúng tôi muốn bàn hôm nay là, ĐCSTQ bị đẩy vào tình thế khó khăn cả trong lẫn ngoài như vậy, liệu Tập Cận Bình có thể được miễn trách nhiệm không? ĐCSTQ là một đảng độc tài, ông là lãnh đạo của đảng độc tài, vậy có phải điều đó có nghĩa là ông có thể làm bất cứ điều gì mình muốn và được miễn trừ mọi sự truy cứu trách nhiệm không?

PHẦN 3: MẬT MÃ QUYỀN LỰC CỦA ĐCSTQ – TẠI SAO “LÃNH ĐẠO TẬP THỂ” LÀ GEN DI TRUYỀN KHÔNG THỂ XÓA BỎ?

Thực ra, về mặt thể chế và quy tắc, lãnh đạo của ĐCSTQ vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm. Tập Cận Bình vẫn không thể được miễn trừ. Đó là vì quyền lực tối cao của ĐCSTQ, trên danh nghĩa, thuộc về Ban Chấp hành Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương có thể truy cứu trách nhiệm của Tổng Bí thư, các Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, và bất kỳ cán bộ cấp cao nào của đảng.

Nói đến đây, chúng tôi muốn tiết lộ một mật mã về quyền lực của ĐCSTQ. Đây cũng là một sự hiểu lầm của nhiều người, đó là dù bạn có nói ĐCSTQ độc tài, chuyên chế đến đâu, thì nguyên tắc “lãnh đạo tập thể” vẫn là một đoạn mã quan trọng trong gen di truyền của ĐCSTQ. Bất cứ lúc nào, ngay cả trong thời kỳ độc tài nhất, ĐCSTQ cũng không thể công khai từ bỏ nguyên tắc này. Không chỉ không thể từ bỏ, mà khi tình hình càng khẩn cấp, họ càng phải ôn lại, liên tục phải quay trở lại từ độc tài của lãnh đạo đảng sang “lãnh đạo tập thể”. Xu hướng này khác với những gì nhiều người hiểu.

Tại sao vậy? Bởi vì trong “lãnh đạo tập thể” chứa đựng câu trả lời của Đảng Cộng sản TQ cho một câu hỏi quan trọng: tại sao đảng lại không bao giờ phạm sai lầm? Tại sao lại luôn vĩ đại, quang vinh và chính xác? Đảng Cộng sản TQ nói với bạn rằng tập thể sẽ không phạm sai lầm. Tôn giáo cho rằng con người ai cũng sẽ phạm sai lầm, con người không bao giờ hoàn hảo, chỉ có Thần mới không phạm sai lầm. Chính vì sự không tin tưởng cơ bản vào bản chất con người mà chính trị phương Tây cận đại đã áp dụng cấu trúc tam quyền phân lập, với tư pháp, lập pháp và hành pháp kiềm chế lẫn nhau, đồng thời các quan chức có nhiệm kỳ rõ ràng, phải được luân chuyển và bầu lại định kỳ.

Còn Đảng Cộng sản TQ thì đã từ bỏ toàn bộ khung nhận thức này. Họ không thừa nhận Thần, nhưng lại tự xưng mình là Thần, rằng tôi sẽ luôn vĩ đại, quang vinh và chính xác. Nhưng họ vẫn phải trả lời câu hỏi: bạn dựa vào đâu để thay thế Thần? Bạn có thể bảo đảm mình sẽ không bao giờ phạm sai lầm không? Thế là Đảng Cộng sản TQ tung ra “chiêu cuối”, đó chính là “tập thể”. Đúng là mỗi cá nhân đều có thể phạm sai lầm, họ cũng thừa nhận điều đó, các vị vua, giáo hoàng, thiên tài đều có thể sai lầm, nhưng đảng của chúng ta thì khác, vì chúng ta không dựa vào thần linh, cũng không dựa vào một thiên tài cứu thế nào, chúng ta dựa vào “lãnh đạo tập thể”. Vì vậy, chúng ta đã vượt qua những hạn chế của tất cả các nhà cầm quyền trong quá khứ, chúng ta sẽ tránh được những điểm yếu của bản chất con người. Nghe qua, logic thật mạnh mẽ, thật thuyết phục, thật mới mẻ.

Cần biết rằng, thời đại mà Đảng Cộng sản TQ trỗi dậy cũng chính là thời đại của sự trỗi dậy của khoa học và thuyết tiến hóa. Niềm tin của con người rời xa tôn giáo, nhưng lại đầy hoài nghi đối với các nhà lãnh đạo và thiên tài. Lúc này, Đảng Cộng sản TQ đã tung ra luận điệu gây sốc là “lý thuyết tập thể miễn sai lầm”. “Lý thuyết tập thể miễn sai lầm” này tập hợp nhiều niềm tin. Thứ nhất là niềm tin của con người vào khoa học, về bản chất là tin vào trí tuệ của con người, chứ không phải tin vào mặc khải, thần dụ. Thứ hai, một sự phát sinh từ niềm tin vào trí tuệ, đó là niềm tin vào cộng đồng chuyên gia. Dân thường biết trí tuệ của mình có hạn, nhưng lại muốn tin vào trí tuệ của nhân loại, phải làm sao? Chúng ta hãy tin vào các chuyên gia. Các viện hàn lâm khoa học và các hiệp hội chuyên gia đều nổi lên vào thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, đó là đối tượng tin cậy của con người thời đó. Ban Chấp hành Trung ương của ĐCSTQ cũng có hào quang tương tự, là một nhóm chuyên gia về quản trị quốc gia. Niềm tin thứ ba là niềm tin vào quy trình bầu cử. Ban Chấp hành Trung ương này trên danh nghĩa cũng do các đảng viên bầu ra. Vì vậy, nó đại diện cho đỉnh cao nhất của trí tuệ nhân loại, cao hơn bất kỳ nhà lãnh đạo thiên tài nào. Do đó, tập thể gồm những người này sẽ không bao giờ phạm sai lầm. Đây chính là nguồn gốc của “lý thuyết tập thể miễn sai lầm”.

Vì vậy, xin mọi người lưu ý, mặc dù Đảng Cộng sản TQ về hình thức rất giống với một tôn giáo cực đoan, nhưng người đại diện ở tiền tuyến của nó, tức Tổng Bí thư, lãnh đạo đảng hay Chủ tịch, thực sự chỉ là một “người đứng trước”. Những người này không bao giờ có thể là giáo chủ thực sự. Bởi vì giáo lý cơ bản của Đảng Cộng sản TQ, đoạn gen quan trọng nhất, đã quyết định rằng vào những thời khắc quan trọng nhất, quyết định sự sống còn của đảng, họ vẫn sẽ giữ vững lằn ranh cuối cùng là “lãnh đạo tập thể”. Và càng trong khủng hoảng, họ càng quay trở lại đoạn gen này, vì nó liên quan đến câu hỏi mấu chốt mà Đảng Cộng sản TQ phải trả lời: “mình là ai”. Nếu từ bỏ nguyên tắc lãnh đạo tập thể này, Đảng Cộng sản TQ có thể biến thành một chế độ độc tài nào đó ở Trung Đông, nhưng nó sẽ không còn là Đảng Cộng sản TQ nữa. Theo nghĩa này, Triều Tiên thực ra đã phần lớn thoát ly khỏi gen cơ bản của Đảng Cộng sản TQ rồi. Họ về cơ bản đã từ bỏ lãnh đạo tập thể, tuyên truyền rằng lãnh tụ là thiên tài vượt trên tất cả mọi người, và còn là lãnh tụ được kế thừa qua các thế hệ, gia đình họ mãi mãi là huyết mạch thần thánh của núi Bạch Đầu, gia tộc đã đi theo con đường đó.

Nếu chúng ta nói theo cách khác, Đảng Cộng sản TQ có một ý chí độc lập, tách rời khỏi ý chí cá nhân của bất kỳ đảng viên nào. Nó là một “tà linh”, nó cao hơn bất kỳ cá nhân đảng viên nào. Vậy thì linh hồn đó phải dựa trên một niềm tin cơ bản, phải nhúng một ý chí của nó vào đầu óc của mọi người thì nó mới có thể kiểm soát được tất cả mọi người. Và niềm tin đó chính là “lãnh đạo tập thể”. Nghe có vẻ rất đường hoàng, nhưng ĐCSTQ dựa vào điều này để có thể nâng đỡ bất kỳ ai, cũng có thể đánh đổ bất kỳ ai, truy cứu trách nhiệm bất kỳ ai, từ đó thao túng toàn bộ tập thể đảng.

Nói đến đây, có thể có người cảm thấy càng nói càng huyền bí, rằng lãnh đạo tập thể cũng không có gì xấu. Ít nhất, việc “chín con rồng trị thủy” (quyền lực phân tán) cũng còn hơn là một mình Tập Cận Bình gây rối. À, lãnh đạo tập thể là gì? Cần biết rằng ĐCSTQ có cách hiểu của riêng mình, đó không phải là cách hiểu của bạn, cũng không phải là cách hiểu của bất kỳ cá nhân đảng viên nào, mà là dựa trên lợi ích của chính nó. Giai đoạn cách mạng cộng sản xuất khẩu ra toàn cầu, đó cũng là lãnh đạo tập thể của đảng. Pol Pot ở Campuchia đã giết 1/3 dân số, đó cũng là dưới sự lãnh đạo tập thể. Chiến tranh Lạnh kéo dài 50 năm, đó cũng là dưới sự lãnh đạo tập thể của các đảng trong phe Liên Xô và Đông Âu. Lãnh đạo tập thể, có lúc trùng khớp một phần với lợi ích của người dân, có lúc không trùng khớp, và phần lớn thời gian là không trùng khớp. Nhưng hôm nay đó không phải là trọng tâm chúng ta muốn nói. Trọng tâm hôm nay là Tập Cận Bình, đúng vậy, ông ta có thể bị truy cứu trách nhiệm. Khi việc truy cứu trách nhiệm xảy ra, nó sẽ thông qua nền tảng Đại hội Đảng và Ban Chấp hành Trung ương, vì nền tảng này mới đại diện cho “tập thể” của đảng, và tập thể thì không bao giờ sai lầm. Trong những thời điểm đặc biệt, có thể thông qua Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng để thực thi quyền lực của Ban Chấp hành Trung ương và truy cứu trách nhiệm của lãnh đạo đảng, sau đó được Ban Chấp hành Trung ương hoặc Đại hội đại biểu toàn quốc của đảng phê chuẩn lại.

Tất nhiên, có người sẽ nói Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cũng có thể bị lãnh đạo đảng kiểm soát. Đó là một chuyện khác. Nhưng nhìn chung, cơ chế truy cứu trách nhiệm là có tồn tại. Vậy thì, truy cứu trách nhiệm như thế nào? Đối với lãnh đạo đảng, vẫn có hai con đường: từ trên xuống và từ dưới lên.

PHẦN 4: BÓNG MA LỊCH SỬ TỪ NHỮNG CUỘC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM TRƯỚC ĐÂY

Có thể có bạn lại thấy lạ, lãnh đạo đảng, Tổng Bí thư hay Chủ tịch không phải là số một rồi sao? Tại sao lại có sự truy cứu trách nhiệm từ trên xuống? Trong một giai đoạn lịch sử của ĐCSTQ, nó từng là chi bộ Viễn Đông của Quốc tế Cộng sản, thực chất là một cơ quan cấp dưới của Quốc tế Cộng sản. Vì vậy, việc truy cứu trách nhiệm trong giai đoạn đó đến từ Quốc tế Cộng sản, thực chất là ý chí của Liên Xô. Trước năm 1935, ĐCSTQ đều ở trong tình trạng này, việc thay đổi và lựa chọn lãnh đạo đều bị Liên Xô can thiệp mạnh mẽ. Đặc biệt là trong bốn năm từ 1928 đến 1931, sự thay đổi trong ban lãnh đạo của ĐCSTQ rất dữ dội và thường xuyên. Năm 1927, Tưởng Giới Thạch phát động phong trào thanh đảng, ĐCSTQ lần đầu tiên đối mặt với thử thách sinh tử. Tổng Bí thư Trần Độc Tú bị cáo buộc phạm sai lầm chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, vào tháng 7 năm 1927, ông bị đình chỉ chức vụ trước. Trương Quốc Đào thay ông điều hành công việc hàng ngày của trung ương. Lần đầu tiên lãnh đạo đảng bị truy cứu trách nhiệm đã xảy ra vào lúc đó. Ngày 7 tháng 8 năm 1927, Trung ương ĐCSTQ triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại Hán Khẩu, thực tế chỉ có 21 người tham dự, nhiều ủy viên trung ương hoàn toàn không thể đến họp vì tình hình khẩn cấp, có bao nhiêu người đến được thì bấy nhiêu người đại diện cho trung ương. Trong những thời khắc như vậy, bạn thấy ĐCSTQ vẫn phải thể hiện tính tổ chức và nguyên tắc của mình. Qua cuộc họp khẩn cấp này, Trần Độc Tú đã chính thức bị bãi nhiệm, và Cù Thu Bạch được đưa lên điều hành công việc của Trung ương Đảng. Từ năm 1928 đến 1929, người thực sự điều hành trung ương lại là Thái Hòa Sâm, sau đó lại đổi thành Lý Lập Tam. Lý Lập Tam lại bị Quốc tế Cộng sản chỉ trích là phạm sai lầm phiêu lưu tả khuynh và bạo động mù quáng, gây ra nhiều tổn thất, nên lại đổi thành Chu Ân Lai. Bản thân Chu Ân Lai lại không giỏi về quân sự, rồi lại đổi về Lý Lập Tam và Cù Thu Bạch. Từ 1928 đến 1931, Tổng Bí thư trên danh nghĩa là Hướng Trung Phát, ông ta thực sự là người do Liên Xô chọn. Nhưng sau khi ông từ Liên Xô về Thượng Hải, ông không có gốc rễ ở địa phương, người thực sự có tiếng nói trong nội bộ ĐCSTQ lại là người khác. Năm 1931, bản thân Hướng Trung Phát cũng gặp chuyện, sau khi bị bắt, ông đã đầu hàng Quốc Dân Đảng, tương đương với việc làm cho Quốc tế Cộng sản mất mặt lớn, người mà bạn tin tưởng lại phản bội cách mạng. Sau đó, Quốc tế Cộng sản lại chọn Vương Minh.

Từ năm 1928 đến 1931, ĐCSTQ luôn ở bên bờ vực của sự diệt vong, vì vậy các nhà lãnh đạo thay đổi như đèn kéo quân. Vừa có những “vua cỏ” đánh du kích như Mao Trạch Đông, vừa có những CEO được “thả dù” từ Liên Xô. Tình trạng này kéo dài cho đến cuộc chính biến tại Hội nghị Tuân Nghĩa năm 1935 mới có sự thay đổi. Mao Trạch Đông nhận được sự ủng hộ của hai nhân vật có thực lực trong đảng là Chu Ân Lai và Trương Văn Thiên, và đã nắm được thực quyền. Phía Liên Xô, do rất tin tưởng Chu Ân Lai, nên đã không phản đối tình hình này. Dù sao thì lúc đó ĐCSTQ đang trên bờ vực diệt vong, Liên Xô cũng khó mà chỉ huy từ xa được nữa, cứ để họ tự đổi người xem sao, biết đâu lại cứu vãn được tình thế. Dần dần, họ đã công nhận tình trạng Mao Trạch Đông nắm quyền. Mãi cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ bảy của ĐCSTQ năm 1945, Mao Trạch Đông mới thực sự được “định ư nhất tôn” (xác lập vị thế độc tôn), ĐCSTQ mới thực sự trở thành một đảng độc lập, bản địa hóa, và cũng nhận được sự công nhận của Liên Xô, mới coi như hoàn toàn thoát khỏi áp lực truy cứu trách nhiệm từ bên ngoài. Mặc dù Liên Xô không còn trực tiếp truy cứu trách nhiệm, nhưng việc có viện trợ quân sự hay không, viện trợ nhiều hay ít, vẫn có thể thông qua đòn bẩy này để có ảnh hưởng lớn đến việc bổ nhiệm nhân sự của ĐCSTQ. Và Mao Trạch Đông cũng không dám giết chết Vương Minh, cuối cùng để ông ta sang Liên Xô dưỡng bệnh là xong chuyện.

Đó là việc truy cứu trách nhiệm từ trên xuống, từ bên ngoài đối với lãnh đạo ĐCSTQ. Sau năm 1949, vì ĐCSTQ đã độc lập lập quốc, nên không còn hình thức truy cứu trách nhiệm này nữa. Việc truy cứu trách nhiệm đối với lãnh đạo đảng chủ yếu là từ dưới lên. Hình thức truy cứu này đến một cách gián tiếp và phức tạp hơn nhiều, tức là thông qua nền tảng Đại hội Đảng và Ban Chấp hành Trung ương để hoàn thành việc chuyển đổi đường lối và truy cứu trách nhiệm của nhà lãnh đạo. Nhưng những e ngại lại nhiều hơn rất nhiều, sự lặp lại cũng nhiều hơn. Dù sao thì lãnh đạo đảng đang tại vị, ông ta danh chính ngôn thuận, có lợi thế. Nếu đối thủ của ông ta không thể lật đổ ông ta trong một bước, ông ta thường có khả năng phản công. ĐCSTQ luôn cố gắng tránh xảy ra sự đứt gãy, họ không muốn làm cái việc tự mình dựng lên tấm biển hiệu rồi lại tự tay đập vỡ nó.

Sau Nạn đói Lớn, Bành Chân đã nói uy tín của Chủ tịch Mao là đỉnh Everest, lấy đi vài tấn đất thì vẫn cao như vậy. Bạn thấy đấy, ông chỉ dám phê bình ở mức độ đó, phải khen Mao Trạch Đông như đỉnh Everest trước, rồi mới nói đến sai lầm của ông. Có thể tưởng tượng rằng, với thái độ vừa muốn thế này vừa muốn thế kia, vừa phải giữ gìn uy tín của Mao Trạch Đông, vừa phải cứu vãn hậu quả của Đại nhảy vọt, hành động của các đối thủ của Mao Trạch Đông sẽ rất yếu ớt. Lúc đó, các đối thủ của Mao chỉ có thể đi theo con đường dần dần thay thế nhân sự, biến Mao Trạch Đông thành một vị vua hữu danh vô thực. Không ngờ Mao Trạch Đông là một nhân vật tàn nhẫn, không chơi theo luật, ông ta trực tiếp kêu gọi hàng triệu dân thường phát động phong trào tạo phản, bỏ qua toàn bộ hệ thống quan liêu, giống như một siêu sao mạng xã hội ngang nhiên bán hàng, ngay lập tức tiêu diệt tất cả các nhà bán lẻ và đại lý. Việc truy cứu trách nhiệm đối với Mao Trạch Đông được hoàn thành sau khi ông chết, với văn kiện “Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử trọng đại của Đảng kể từ khi thành lập nước” được thông qua tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XI của ĐCSTQ năm 1981 làm cột mốc. Việc này cũng được thực hiện thông qua nền tảng Ban Chấp hành Trung ương với tư cách là cơ quan có thẩm quyền cao nhất để hoàn thành việc truy cứu trách nhiệm đối với Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, sự truy cứu này rất hạn chế. Để không phủ nhận luôn cả cái gọi là công lao lịch sử của chính ĐCSTQ, họ vẫn phải giữ lại tấm biển hiệu “Tư tưởng Mao Trạch Đông”, phải cứu vớt tấm biển hiệu này. Vậy phải làm sao? Không thể để một mình Mao Trạch Đông chịu toàn bộ trách nhiệm. Trách nhiệm chính được đổ cho Lâm Bưu và “Bè lũ bốn tên”.

Tám năm sau, lại có một cuộc truy cứu trách nhiệm nữa, nhắm vào phe cải cách do Triệu Tử Dương đứng đầu. Đây là cuộc thanh trừng của phe bảo thủ trong ĐCSTQ đối với phe cải cách và phe ôn hòa trong nội bộ sau cuộc thảm sát Thiên An Môn năm 1989. Đồng thời, họ cũng đặt ra quy tắc ngầm “hình phạt không áp dụng với ủy viên thường vụ” sau này. Mãi đến năm 2015, Chu Vĩnh Khang lại bị truy cứu trách nhiệm và bị kết án tù chung thân. Nhưng sau năm 1989, không còn có việc truy cứu trách nhiệm đối với Tổng Bí thư nữa.

Việc truy cứu trách nhiệm đối với lãnh đạo đảng không phải là không xảy ra, mà chỉ có thể xảy ra khi có sự chuyển đổi trong “tổng lộ tuyến”. Bởi vì tập thể là thần thánh, không thể phạm sai lầm, nên cần có người đứng ra nhận lỗi. Sự chuyển đổi đường lối càng lớn, càng cần phải chứng minh rằng những gì đã làm trước đó là sai, và do đó càng cần có một người ở cấp cao đứng ra chịu trách nhiệm cho những sai lầm đó.

Vì vậy, quay lại trọng tâm hôm nay, liệu Tập Cận Bình có bị truy cứu trách nhiệm hay không, điều đó phụ thuộc vào mức độ thay đổi mà ĐCSTQ cần phải thực hiện. Cũng phụ thuộc vào việc liệu Tập Cận Bình có thể đạt được sự đồng thuận với những người tiền nhiệm và đồng liêu của mình, đổ trách nhiệm cho người khác, để người khác “gánh nồi” hay không. Nếu có thể tìm ra một “Bè lũ bốn tên” mới để họ gánh nồi, thì thực sự có thể cứu được Tập Cận Bình, và trách nhiệm của ông sẽ nhỏ hơn. Nhưng việc tìm ra một “Bè lũ bốn tên” mới gần như là không thể, con đường đó không thể đi được nữa. Bởi vì kể từ khi đại dịch bắt đầu vào năm 2020, việc Tổng Bí thư Tập “đích thân chỉ huy, đích thân triển khai”, đích thân sa lầy, đích thân buông xuôi đã được cả thế giới biết đến.

Vì vậy, tiếp theo sẽ phải xem cuộc khủng hoảng của ĐCSTQ nghiêm trọng đến mức nào. Phải nói rằng, với mức độ đảo ngược vận mệnh quốc gia như hiện nay, trong lịch sử trăm năm qua của ĐCSTQ, nó đáng lẽ đã phải kích hoạt một sự chuyển đổi “tổng lộ tuyến”. Như vậy, Tập Cận Bình không thể được miễn trách nhiệm.

PHẦN 5: TẬP CẬN BÌNH CÓ THỂ TRỞ THÀNH STALIN? VÀ BÍ ẨN CÁI CHẾT CỦA CÁC NHÀ ĐỘC TÀI

Tiếp theo, có người sẽ hỏi, liệu Tập Cận Bình có thể giống như Stalin hay Mao Trạch Đông, cứ thế sống cho đến khi chết rồi mới bị thanh toán không? Chết rồi thì chẳng còn gì để nói, dù cho nước lụt đến trời. Vậy thì bạn phải xem liệu Tập Cận Bình có thể tàn nhẫn như Stalin hay Mao Trạch Đông, tiêu diệt hết các đối thủ khi còn sống hay không. Stalin thực hiện việc tiêu diệt thể xác. Có người đã thống kê, trong số tất cả các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Cộng sản Liên Xô còn sống trước năm 1936, có 239 người. Kết quả là, 188 người bị xử bắn hoặc chết trong tù, 8 người tự sát, 22 người bị khai trừ khỏi Ban Chấp hành Trung ương và bị lưu đày. Tổng cộng có 218 ủy viên trung ương không có kết cục tốt đẹp, chiếm 91% tổng số ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô còn sống vào năm 1936. Bạn thấy đấy, ủy viên trung ương trong thời đại Stalin là một nghề nguy hiểm đến mức nào, 90% không chết một cách tử tế. Mao Trạch Đông thì không giết nhiều đồng chí như vậy, nhưng phạm vi tấn công cũng rất rộng. Bây giờ xem ra, Tập Cận Bình dường như không thể đạt đến mức độ thanh trừng như Stalin hay Mao Trạch Đông. Trong mười năm cầm quyền, mặc dù ông đã loại bỏ một số đối thủ chính trị thông qua cuộc đấu tranh chống tham nhũng, nhưng các gia tộc quyền quý cấp cao các khóa trước, và hầu hết các ủy viên Bộ Chính trị các khóa, đều không bị đánh đổ. Điều này làm cho tình thế của Tập Cận Bình hôm nay kém an toàn hơn nhiều so với Stalin và Mao Trạch Đông.

Thực ra, Stalin và Mao Trạch Đông cũng không an toàn như mọi người tưởng. Từ lâu đã có một tin đồn giang hồ rằng Stalin chết vì bị mưu sát. Mọi người đã nghe câu chuyện này chưa? Nếu chưa, chúng ta hãy kể một chút. Người bị nghi ngờ ra tay chính là thân tín của ông ta, Beria. Cái chết của Stalin và cái chết của Lý Khắc Cường có những điểm tương đồng nhất định về tình tiết. Thông báo chính thức nói rằng Stalin đột ngột ngã quỵ vì đột quỵ trong phòng ngủ, bị xuất huyết não. Nhưng có một chi tiết từ lâu đã được mọi người bàn tán, đó là trong vòng 12 đến 14 giờ, Stalin không nhận được bất kỳ sự cứu giúp nào. Người ta nói rằng, bác sĩ riêng của Stalin là người đầu tiên phát hiện ra tình hình này và đã báo cáo ngay cho Beria. Lệnh của Beria cho ông ta là “đừng làm phiền đồng chí Stalin”. 

Mỹ có vụ án ám sát Kennedy, Liên Xô có vụ án “bác sĩ Kremlin”, đều là những vụ án bí ẩn của thế kỷ. Nhiều người nghi ngờ rằng, ngay cả khi cái chết của Stalin không phải do Beria hạ độc hay những việc tương tự, thì cũng là Beria đã lợi dụng cơ hội Stalin bị đột quỵ tự nhiên, cố ý trì hoãn, gây ra cái chết của Stalin. Vậy, chẳng phải Beria là người do chính tay Stalin cất nhắc lên sao? Mọi thứ của ông ta đều đến từ Stalin, tại sao ông ta lại ra tay với Stalin? Cần biết rằng, một năm trước đó, tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 19, Stalin đã điểm danh chỉ trích một loạt quan chức cấp cao của Đảng, bao gồm Beria, Voroshilov, Mikoyan, Molotov, Kaganovich. Tất cả những người này sau đó đều sống trong sự hoảng loạn tột độ. Có những dấu hiệu cho thấy tâm tư của Stalin lại trỗi dậy, ông ta đang lên kế hoạch cho một cuộc thanh trừng mới, cảm thấy rằng đám người bên cạnh đã hưởng thái bình quá lâu, cảm thấy mông mình đã ngồi vững, đã bắt đầu kết bè kết phái, hình thành các nhóm lợi ích riêng. Điều đó không được, ta phải lôi các ngươi dậy vận động một chút. Kết quả là vào tháng 3 năm sau, Stalin đột ngột qua đời vì xuất huyết não. Điều này không phải là quá trùng hợp sao?

Xét từ thời điểm hiện tại, nếu không thực hiện được sự chuyển đổi “tổng lộ tuyến” của ĐCSTQ vào mùa thu năm 2025, họ sẽ mất đi cơ hội quan trọng. Hoa Kỳ vẫn đang xem xét có nên gia hạn thời gian đình chiến thuế quan cho Trung Quốc hay không. Ngày 31 tháng 7, Tổng thống Trump tuyên bố rằng thời gian tạm hoãn thuế quan cho hầu hết các quốc gia sẽ không được gia hạn nữa, chỉ riêng đối với ĐCSTQ, đối thủ kinh tế chính, lại không có tuyên bố rõ ràng. Điều này ẩn chứa một sự bất định rất lớn, đây là chiến thuật thường dùng của Trump để gây áp lực lên đối thủ. Ngày 12 tháng 8 là hạn chót. Nếu không nhận được tín hiệu thỏa hiệp rõ ràng từ phía ĐCSTQ, rất có thể thời gian đình chiến sẽ không được gia hạn. Vì vậy, cửa sổ thời gian của ĐCSTQ là rất eo hẹp. Cũng có thể Mỹ sẽ chỉ áp lại một phần thuế quan đối với Trung Quốc, và gia hạn phần còn lại trong ba tháng, với hạn chót cuối cùng là tháng 11. Vì vậy, nếu ĐCSTQ không hoàn thành việc thay đổi đường lối tại Hội nghị Trung ương 4 khóa 20 vào tháng 10, thì phải đợi một năm sau mới có hội nghị trung ương tiếp theo, mà ĐCSTQ đã không còn thời gian đó nữa. Tất nhiên, hội nghị Bộ Chính trị mở rộng có thể họp bất cứ lúc nào và cũng có thể đại diện cho Trung ương, nhưng dù sao nó cũng không có thẩm quyền và danh chính ngôn thuận như hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương.

Chính vào lúc mọi người đều cảm thấy rất mệt mỏi với tin tức chính trị, cảm thấy dường như mọi thứ sẽ diễn ra theo kế hoạch, sẽ không có thay đổi lớn, thì có lẽ đó lại là lúc những thay đổi lớn sắp đến.

***