Mới đây, bộ phim hoạt hình “Con Rồng cháu Tiên” đã ra mắt khán giả thu hút hàng triệu lượt xem và bình luận tích cực. Đó là kết quả hoàn toàn xứng đáng với tâm huyết của hơn 100 nghệ sĩ Việt Nam trong 180 ngày lao động sáng tạo. Sức thu hút của bộ phim cũng thể hiện sự quan tâm của những người con đất Việt về nguồn gốc và niềm tự hào dân tộc mình.
Mặc dù được cho là bắt nguồn từ truyền thuyết, thế nhưng câu chuyện đã thực sự đi vào chính sử khi được ghi lại trong “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”. Và câu hỏi đặt ra là: “Con Rồng Cháu Tiên” có phải chỉ là một câu nói hình tượng?
Trong truyền thuyết lâu đời của Việt Nam được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái của tác giả Trần Thế Pháp, một danh sỹ đời nhà Trần (1226-1400), những chi tiết mang tính “huyền thoại” được ghi lại một cách hết sức tự nhiên, giản dị, như là sự thực vốn có vậy.
Về sau, khi biên soạn lại Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697), các chi tiết thần tiên này được lược bớt đi cho phù hợp với nhận thức người thời sau và phù hợp với tư cách một cuốn chính sử, nhưng vẫn giữ nguyên tên tuổi và những sự kiện chính.
Chúng ta hãy cùng nhìn lại, từ đâu có câu nói “Con Rồng Cháu Tiên” mà người Việt Nam luôn thuộc lòng?
Nguồn gốc con Rồng cháu Tiên
Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái ghi chép, ông nội của Lạc Long Quân, tên là Đế Minh, là cháu 3 đời Viêm Đế (Thần Nông) sinh ra con cả Đế Nghi, rồi nam tuần đến núi Ngũ Lĩnh, gặp được nàng tiên tên Vụ Tiên đem lòng thương yêu rồi cưới về, sinh ra được Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh. (Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại thành “gặp con gái bà Vụ Tiên”, bởi việc gặp được Tiên nữ giáng trần và cưới một nàng Tiên là việc khó có thể ghi lại trong chính sử).
Đế Minh kinh ngạc trước sự đoan chính, thông minh và tài trí của Lộc Tục, muốn Lộc Tục nối ngôi vua, nhưng Lộc Tục lại nhường cho anh. Đế Minh lập Đế Nghi cai trị phương Bắc (một phần Trung Quốc hiện giờ), phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị Phương Nam (đất Việt hiện nay), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, cưới con gái vua hồ Động Đình (Long Vương), tên là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân. Chi tiết xuống Thủy Phủ này cũng bị lược bớt trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bởi vì việc hiển nhiên tồn tại Thủy Phủ cũng là điều khó chấp nhận được trong nhận thức con người đời sau, nên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chỉ còn ghi chép: “Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân”.
Trong nhận thức và sự quan sát vạn vật của người xưa, Thủy Phủ (hay còn gọi là Thoải Phủ), song hành cùng Thiên Phủ và Địa Phủ, là các cõi không gian tồn tại đồng thời với không gian con người.
Việc ông ngoại của Lạc Long Quân vốn là một vị Long Vương cai quản hồ Động Đình, hay bà nội là một nàng tiên giáng trần, cũng là điều khó lý giải được trong nhận thức con người về sau và khó ghi vào chính sử. Song những sự tích ghi chép lại trong dân gian về việc gặp Tiên hay Rồng cũng rất nhiều (ví dụ như Từ Thức gặp Tiên, Lưu Nguyễn lạc vào cõi tiên v.v.).
Nguồn gốc “Tiên”, “Rồng” của người dân Việt cũng chính bắt nguồn từ đây.
Hồ Động Đình là hồ nước ngọt lớn thứ hai Trung Quốc, nằm ở đông bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc hiện nay. Trước đây, về thời nhà Hán, với đầm lớn Vân Mộng nằm ở phía bắc của hồ, Động Đình là hồ lớn nhất Trung Quốc và được gọi là “Bát bách lý Động Đình” (Hồ Động Đình 800 dặm). Hồ Động Đình phong cảnh Thần Tiên được mệnh danh là Tiêu Tương Hồ Nam.
Tỉnh Hồ Nam là châu thổ sông Tương nên Hồ Nam có khi gọi tắt là Tương theo tên con sông nổi tiếng này. Sông Tương thường gắn với chia ly. Truyền thuyết Việt cũng ghi rằng Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay nhau ở cánh đồng Tương. “Ai có về bên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương/ Bao ngày ôm mối tơ vương…” của nhạc sĩ Thông Đạt, hay những câu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là sông Tương này.
Đất Việt nước ta, sau khi được Lạc Long Quân đổi tên thành nước Văn Lang cũng có biên giới phía bắc giáp hồ Động Đình. “Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải….” – Trích Đại Việt sử ký Toàn Thư.
Tại Việt Nam trên đất An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày nay, cũng có một ngôi đền thờ “Vua Cha Bát Hải Động Đình”, xưa là Hoa Đào Trang Chính Sơn Nam thời cổ sau gọi là Trang Đào Động. Đây chính là ngôi đền đã tồn tại gần 4.000 năm (từ thời Vua Hùng) trên đất Thái Bình. Có lẽ người đời sau cũng không còn rõ Vua Cha Bát Hải Động Đình mà các vị vua Hùng thờ phụng thực sự là ai.
Câu đối ở Lăng mộ Hùng Vương ở đền Hùng có ghi:
“Vân ám Động Đình Long chắc dạng
Nguyệt khuê Lĩnh Biểu Hạc qui tiên”.
Dịch nghĩa (Vũ Kim Biên):
“Mây phủ Động Đình Rồng xuất thế
Trăng soi Nghĩa Lĩnh Hạc quy tiên”.
Trong lời hát ru con từ xa xưa, những địa danh không có trên đất Việt ngày nay đã tồn tại từ bao giờ:
“Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
…Bống bồng bông, bống bồng bông
Võng đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên”.
Theo nhiều nghiên cứu lịch sử độc lập của các chuyên gia khác nhau, nói chung đều có suy đoán tương tự rằng, nguồn gốc nước Việt là từ Xích Quỷ, bao gồm rất nhiều tộc Việt khác nhau sinh sống trải dài từ nam Trung Hoa ngày nay xuống Chiêm Thành. Nhưng chủng tộc Việt hoàn toàn khác so với chủng Hoa Hạ, vì thế chúng ta không có sự liên quan nào về nguồn gốc với người Trung Quốc ngày nay, mặc dù lãnh tụ đầu tiên của người Việt có nguồn gốc từ châu thổ sông Tương. Sau khi trải qua rất nhiều cuộc chinh chiến với người Hoa Hạ ở phía bắc, một tộc Việt đã lui xuống phía nam, mở rộng bờ cõi để dựng lập nên nước Việt Nam ngày nay trong khi các tộc Việt khác bị thôn tính trở thành một phần của Trung Quốc.
Trong số hậu duệ của chủng Việt, không có quốc gia nào còn giữ được tên “Việt” ngoại trừ dân tộc Việt Nam. Sau hàng nghìn năm thăng trầm, sức sống bền bỉ, sáng tạo tiếng nói, dũng mãnh chống ngoại xâm, người Việt đã không hề bị đồng hóa mà vươn mình về phía nam và phát triển cho tới ngày nay.
Lạc Long Quân và Âu Cơ dựng lập đất Việt
Theo ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái, Lạc Long Quân thay cha trị nước. Lạc Long Quân dạy dân cách ăn mặc, bắt đầu có trật tự về Quân Thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ). Lạc Long Quân vẫn đi về Thủy Phủ, nhưng trăm họ vẫn yên ổn.
Dân lúc nào có việc cần thì kêu Lạc Long Quân: “Bố đi đằng nào, không đến cứu chúng ta”, thì Lạc Long Quân lập tức xuất hiện ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trấn lượng được. Những thần thông và năng lực phi phàm của Lạc Long Quân được mô tả rất giản dị, tự nhiên trong ghi chép của Lĩnh Nam Chích Quái.
Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc, một ngày sực nhớ đến việc ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ, Đế Lai cùng con gái là Âu Cơ và bộ chúng thị thiếp nam tuần qua Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có vua, bèn cùng mọi người lưu lại nơi này. Đế Lai chu du khắp thiên hạ, thấy biết bao kỳ hoa, dị thảo, trân cầm, dị thú, tê tượng đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị, không thứ nào không có. Khí hậu bốn mùa lại dễ chịu, Đế Lai lưu lại quên cả ngày về.
Nhân dân nước Nam não khổ vì sự phiền nhiễu, không được yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Lạc Long Quân về, nên mới cùng nhau kêu: “Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân”.
Lạc Long Quân nghe thấy tiếng kêu liền lập tức xuất hiện. Trông thấy nàng Âu Cơ dung mạo đẹp lạ lùng, mới hóa thành một chàng trai phong tú mỹ lệ, tiếng đàn ca vang tới. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo, Lạc Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang. Đế Lai không thấy Âu Cơ bèn sai quân thần đi tìm khắp thiên hạ. Lạc Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách, nào là yêu tinh quỷ mị, nào là long xà hổ tượng (rồng rắn hổ voi), quần thần được sai đi tìm không cách nào tìm được. Đế Lai đành trở về.
Bọc trăm trứng và cuộc phân ly
Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài. Hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, bèn đem về nuôi nấng, không cho ăn không cho bú mà tự nhiên lớn trường đại, trí dũng song toàn, ai cũng ngưỡng mộ, gọi là những anh em phi thường. (Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, chi tiết này chỉ được ghi thành “Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt”. Những ghi chép về thần thông biến hóa cũng như việc Lạc Long Quân đi về giữa mặt đất và Thủy Phủ cũng được loại bớt khỏi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).
Lạc Long Quân ở dưới thủy phủ, mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc, liền đi lên biên giới. Vua đất Bắc lúc bấy giờ tên Hoàng Đế, nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan ải, mẹ con không về được, đêm ngày gọi Lạc Long Quân: “Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!”.
Lạc Long Quân đột nhiên lại xuất hiện, gặp mẹ con ở Tương Dã, Âu Cơ nói:
“Thiếp vốn người đất Bắc, cùng ở một nơi với Quân, sinh ra được một trăm con trai mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò võ…”.
Lạc Long Quân nói:
“Ta là loài rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc, nàng là giống Tiên, người ở trên Đất, vốn chẳng như nhau. Tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con trai về thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi con trai theo nàng ở trên Đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau”.
Phân chia bờ cõi và dựng lập đất nước
Trăm trai đều theo mệnh, rồi mới từ giã ra đi. Âu Cơ cùng năm mươi người con ở lại Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người Hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang. Về bờ cõi của nước thì đông giáp Nam Hải (Biển Đông), Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam đến Hồ Tôn Tinh (nước Chiêm Thành), chia trong nước ra làm 15 bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Trường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quân, sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng Võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương.
Dân khi ấy ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối. Đất nương khi ấy trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, gác cây làm nhà để tránh hổ và lang sói, cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm, nhà có người chết thì giã gạo để hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp, trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, vì thời đó chưa có sự tích trầu cau.
Câu chuyện về nguồn gốc người Việt nghe có vẻ huyền hoặc và được lưu truyền qua bao đời, nhưng nó lại được đưa vào một trong những tác phẩm chính sử hoàn thiện nhất của nước Nam. Nghi hoặc hay không là quyền của bạn, nhưng xin được kết lại bằng lời Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:
“Khi trời đất mới mở mang, có thứ do khí hóa ra, đó là dòng dõi Bàn Cổ. Có khí hóa ra rồi sau có hình hóa, không thứ gì ngoài hai khí âm dương cả. Kinh Dịch nói: ‘Trời đất nung ủ, vạn vật thuần hóa, đực cái hợp tinh, vạn vật hóa sinh’. Cho nên có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi.
Nhưng thánh hiền sinh ra, tất có khác thường, đó là do mệnh Trời.
Nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra nhà Thương, giẫm vết chân người khổng lồ mà dấy nhà Chu, đều là ghi sự thực như thế. Con cháu dòng dõi Thần Nông là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải là cái gốc đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao?”.
(Bài viết có tham khảo và trích đoạn từ nguồn “Lĩnh Nam chích quái” và “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”)
Hà Phương Linh – Thu Hiền