Tác giả: Thái Nguyên biên soạn
Vào những năm Trinh Quán thời nhà Đường, hoàng đế Thái Tông là một đức vua nhân từ và sáng suốt, tin dùng hiền thần. Về văn có mười tám học sĩ, về võ có mười tám lộ tổng quản. Tất cả những người có tài năng và trí tuệ trong thiên hạ đều được tiến cử vào các vị trí để phát huy hết tài năng của mình. Vì vậy, thiên hạ thái bình, muôn dân an lạc.
Ở huyện Sáp Bình, Bác Châu, Sơn Đông, có một tài tử tên là Mã Chu. Cha mẹ mất sớm, ông nghèo đến mức hơn ba mươi tuổi vẫn chưa lấy vợ. Từ nhỏ, ông đã tinh thông kinh sử, có học vấn, có chí khí, có mưu lược, mọi mặt đều hơn người. Chỉ vì mồ côi và nghèo khó, không có ai tiến cử nên tài năng của ông không được dùng, giống như một con thần long bị mắc kẹt trong bùn lầy, không thể bay lên được, đành phải mượn rượu giải sầu mỗi ngày, say khướt mới thôi.
Lúc bấy giờ, thái thú Bác Châu tên là Đạt Hề, ngưỡng mộ tài học của Mã Chu nên đã mời ông làm trợ giáo trong trường học của chính quyền địa phương. Vào ngày nhậm chức, các tú tài mang rượu đến chúc mừng, Mã Chu uống say bí tỉ. Ngày hôm sau, thái thú đích thân đến trường học để thỉnh giáo, thấy Mã Chu vẫn chưa tỉnh rượu, liền tức giận bỏ đi. Sau khi Mã Chu tỉnh rượu, ông vội vàng đến nha môn để tạ tội, bị thái thú Đạt Hề quở trách một hồi lâu, lủi thủi đi về. Tuy nhiên, dù bị thái thú quở trách, ông vẫn không sửa đổi thói xấu, mỗi khi có học trò đến thỉnh giáo, ông lại giữ họ lại uống rượu. Tiền lương của ông đều tiêu vào rượu, nhưng vẫn không đủ, ông lại đến nhà học trò để uống chực.
Một hôm, Mã Chu uống say, hai học trò dìu ông về nhà. Vừa hay gặp kiệu của thái thú Đạt Hề, phu kiệu bảo Mã Chu tránh đường. Mã Chu uống say đến nỗi không nhận ra cả thái thú, trợn mắt chửi bới. Thái thú Đạt Hề thấy ông say quá mức, đành phải quở trách ông một trận nữa ngay trên phố. Ngày hôm sau, sau khi Mã Chu tỉnh rượu, học trò khuyên ông đi tạ tội. Ông thở dài nói: “Ta chỉ vì mồ côi và nghèo khó, nghĩ rằng đây là một bậc thang để làm quan, mới phải khuất mình trước người khác. Nay vì ham rượu mà nhiều lần bị sỉ nhục, còn mặt mũi nào mà đi cầu xin lòng thương xót của người ta nữa? Chức trợ giáo này, không làm cũng được!” Nói xong, ông liền giao công phục cho học trò, bảo mang trả lại cho thái thú, rồi ngửa mặt lên trời cười ha hả, bỏ đi.
Tuy nhiên, đi đâu bây giờ? Ngay cả Mã Chu cũng không biết. Ông nghĩ rằng ở lại châu phủ cũng chẳng có ý nghĩa gì, thà đến kinh đô Trường An, nhỡ đâu gặp được vị công khanh thừa tướng nào đó tán thưởng, tiến cử, thì còn có ngày ngóc đầu lên được. Thế là ông lên đường đến Trường An. Một tháng sau, Mã Chu đến Tân Phong. Hôm đó, trời đã tối, Mã Chu chọn một quán trọ lớn rồi bước vào. Vừa hay có một đoàn thương nhân dắt theo xe ngựa, chở đầy hàng hóa, cũng đến quán trọ nghỉ chân. Chủ quán Vương Công ra đón, sắp xếp phòng ốc, chất hàng hóa. Các thương nhân ai nấy ngồi vào chỗ của mình, gọi rượu và thức ăn. Tiểu nhị chạy tới chạy lui, bận rộn như đèn cù. Chỉ có Mã Chu ngồi một mình ở một góc, không ai để ý, trong lòng bực bội, liền đập bàn hét lớn: “Chủ quán, ông khinh người quá! Lẽ nào tôi không phải là khách, sao không ai ra chào hỏi?”
Vương Công nghe thấy, vội vàng chạy lại: “Khách quan đừng giận, bên kia đông người, nên phải sắp xếp cho họ trước. Ngài dùng rượu hay dùng cơm, cứ việc sai bảo.” Mã Chu nói: “Tôi đi đường đã lâu, chân chưa được rửa, muốn xin chút nước nóng.” Vương Công tỏ ra rất khó xử: “Nồi niêu đều đang dùng cả, muốn có nước nóng phải đợi một lát.” Mã Chu cũng không so đo: “Nếu vậy, cứ mang rượu lên trước.” Vương Công hỏi: “Ngài muốn bao nhiêu rượu?” Mã Chu chỉ vào đám thương nhân ở bàn đối diện nói: “Họ muốn bao nhiêu, tôi muốn bấy nhiêu.” Vương Công kinh ngạc: “Năm vị khách đó muốn năm bình rượu ngon đấy!” Mã Chu nói: “Cũng năm bình đi! Thức ăn thì tùy ý mang lên.” Vương Công sai tiểu nhị hâm nóng năm bình rượu, bày ra bàn, rồi mang thêm mấy đĩa thức ăn.
Mã Chu tự rót tự uống, uống hết khoảng ba bình thì không uống được nữa. Ông bảo tiểu nhị mang chậu rửa chân đến, đổ hết rượu còn lại vào chậu, cởi ủng ra, cho chân vào rửa. Các vị khách trong quán thấy vậy đều lấy làm lạ. Vương Công cũng thầm kinh ngạc, biết ông không phải là người tầm thường, liền sắp xếp cho ông nghỉ lại.
Ngày hôm sau, Vương Công dậy sớm tính tiền, tiễn các vị khách lên đường. Mã Chu không một xu dính túi, liền cởi chiếc áo lông cáo đưa cho Vương Công để trả tiền rượu và cơm. Vương Công thấy Mã Chu là người hào phóng, mà chiếc áo lông cáo lại quá quý giá, nên kiên quyết không nhận, nói: “Khách quan lần này không tiện, lần sau bù lại là được, cái này tôi không dám nhận.” Mã Chu thấy Vương Công không nhận, liền lấy bút mực, viết một bài thơ lên tường:
Cổ nhân cảm nhất phạn, thiên kim khí như lý.
Chủy trợ an túc thù? Sở trọng tại tri kỷ.
Ngã ẩm Tân Phong tửu, hồ cừu bất dụng đế.
Hiền tai chủ nhân ông, ý khí khuynh hương lý.
Dịch thơ
Xưa một bữa ăn, ơn sâu tựa bể,
Ngàn vàng báo đáp, nhẹ tựa giày đi.
Thìa đũa sao đền, tình sâu khôn kể,
Quý nhất trên đời, gặp được tri kỷ.
Rượu ngon Tân Phong, ta nay được thưởng,
Áo lông cáo quý, chẳng cần cầm đi.
Chủ quán hiền thay, lòng đầy nghĩa khí,
Tiếng thơm hào sảng, vang khắp thôn lý.
Viết xong, ông ký tên “Sáp Bình nhân Mã Chu đề”. Vương Công thấy ông có tài hoa, trong lòng vô cùng kính trọng, liền hỏi: “Tiên sinh bây giờ định đi đâu?” “Đến Trường An cầu công danh.” Vương Công lại hỏi: “Có chỗ ở quen thuộc không?” Mã Chu lắc đầu: “Không có.” Vương Công nói: “Với tài hoa của tiên sinh, nhất định sẽ công thành danh toại. Nhưng ở Trường An vật giá đắt đỏ, ngài không có lộ phí, làm sao mà ở được? Lão có một người cháu gái, gả cho nhà Triệu Tam Lang bán bánh bao ở phố Vạn Thọ. Lão viết một bức thư, giới thiệu tiên sinh đến nhà cô ấy ở tạm! Đây là ba lượng bạc, tặng ngài làm lộ phí, xin đừng chê ít.” Mã Chu cảm kích tấm lòng của ông, đành phải nhận lấy. Vương Công viết xong thư, đưa cho Mã Chu, tiễn ông lên đường.
Bạch Cư Dị có bài thơ “Tân Phong lộ phùng cố nhân” miêu tả cảnh Mã Chu u uất không gặp thời trên đường đi ở Tân Phong:
Trần thổ trường lộ vãn, Phong yên phế cung thu.
Tương phùng lập mã ngữ, Tận nhật thử kiều đầu.
Tri quân bất đắc ý, Uất uất lai tây du.
Trừu trướng Tân Phong điếm, Hà nhân thức Mã Chu.
Dịch thơ:
Đường dài bụi đất lúc chiều tà,
Cung hoang khói quyện, thu phong qua.
Dừng ngựa đầu cầu, ta gặp bạn,
Chuyện trò tâm sự suốt ngày qua.
Biết anh thất chí đường mây gió,
Uất ức tìm về chốn phồn hoa.
Buồn thay quán trọ Tân Phong ấy,
Mã Chu ở đó ai nhận ra?
Mã Chu u uất không gặp thời đến Trường An, quả là một thế giới phồn hoa, vô cùng náo nhiệt. Ông hỏi thẳng đến nhà họ Triệu bán bánh bao ở phố Vạn Thọ, đưa thư của Vương Công vào. Hóa ra, nhà họ Triệu này mấy đời đều sống bằng nghề bán đồ ăn làm từ bột mì. Năm trước, chủ nhà Triệu Tam Lang bệnh mất, vợ là Vương thị ở nhà thủ tiết, bắt đầu quản lý cửa hàng. Bà chính là cháu gái của Vương Công, tuy đã ngoài ba mươi tuổi nhưng vẫn xinh đẹp hơn người.
Khi Vương thị bắt đầu ra mặt bán bánh bao, một hôm bị thần tướng Viên Thiên Cang nhìn thấy, không khỏi kinh ngạc, than rằng: “Người phụ nữ này mặt như trăng rằm, môi như sen hồng, giọng nói trong trẻo, sơn căn không đứt, là tướng đại quý, sau này nhất định sẽ là nhất phẩm phu nhân, sao lại phải ở nơi này?”
Sau này, Viên Thiên Cang vô tình nhắc đến chuyện này với trung lang tướng Thường Hà. Thường trung lang biết Viên Thiên Cang xem tướng chưa bao giờ sai, liền muốn cưới Vương thị làm thiếp, bèn sai quản gia lấy cớ mua bánh bao, ngày nào cũng đến cửa hàng của bà quấy rầy, khuyên Vương thị đi lấy chồng, Vương thị nghe xong chỉ cười, không để tâm.
Nói lại, một đêm trước khi Mã Chu đến, Vương thị nằm mơ thấy một con ngựa trắng, từ phía đông đến cửa hàng của bà, ăn hết mấy xửng bánh bao trong một hơi. Bà đuổi theo, không ngờ lại nhảy lên lưng ngựa. Con ngựa trắng bỗng chốc biến thành một con rồng lửa, bay vút lên trời. Tỉnh dậy người nóng ran, cảm thấy giấc mơ này rất kỳ lạ. Vừa hay vào ngày hôm đó, Vương thị nhận được thư của cậu Vương Công, nói là giới thiệu một người họ Mã đến ở nhờ. Bà thấy người đến mặc áo trắng, nhớ lại giấc mơ, trong lòng vô cùng nghi hoặc, liền giữ ông lại, ngày ba bữa cơm nước, cung phụng chu đáo. Mã Chu ăn ở nhà bà, lại rất thản nhiên, không hề có ý khiêm tốn, còn Vương thị thì trước sau như một, đối xử với ông rất cung kính.
Ở địa phương có một đám vô lại, thấy Vương thị là một góa phụ xinh đẹp, thường xuyên buông lời trêu chọc, sau này thấy bà đứng đắn, mới không dám trêu chọc nữa. Bây giờ, đám này thấy bà giữ một người khách độc thân phương xa ở trong nhà, liền bắt đầu bàn ra tán vào, tung ra nhiều lời khó nghe. Vương thị là người đứng đắn, nghe những lời đồn thổi, liền nói với Mã Chu: “Tôi vốn định giữ ngài ở lại thêm, nhưng nhà góa bụa, miệng lưỡi thế gian thật đáng sợ. Tiền đồ của tiên sinh còn rộng mở, nên tìm một nơi tốt hơn, sớm ngày thành danh. Nếu lãng phí thời gian ở đây thì thật đáng tiếc!”
Mã Chu nói: “Tiểu sinh ngược lại muốn đi dạy học, nhưng không biết xin vào đâu!” Lời vừa dứt, thì thấy quản gia của Thường trung lang lại đến mua bánh bao. Vương thị nghĩ Thường trung lang là võ quan, chắc chắn không thể thiếu văn sĩ giúp đỡ, liền hỏi quản gia: “Ở đây tôi có một người họ hàng là Mã tú tài, học rộng tài cao, muốn tìm một công việc ở đây, không biết nhà ông chủ của ông bây giờ có cần mời thầy giáo không?”
Quản gia trả lời: “Đang cần mời đấy ạ! Tôi sẽ đi bẩm báo với đại nhân ngay.” Hóa ra, lúc đó Đường Thái Tông hạ thánh chỉ, tất cả các quan viên từ ngũ phẩm trở lên đều phải dâng tấu chương, thẳng thắn trình bày những điều được và mất. Thường trung lang cũng là quan viên trên ngũ phẩm, phải dâng tấu chương, đang cần tìm một người học rộng tài cao để viết thay. Vừa hay quản gia trở về, đem lời của Vương thị nói lại. Thường trung lang mừng rỡ, lập tức viết thiệp mời, sai người dắt ngựa đi đón. Thế là Mã Chu từ biệt Vương thị, đến nhà Thường trung lang. Thường trung lang thấy ông tướng mạo phi phàm, vô cùng tôn trọng, lập tức mang rượu và thức ăn ra đãi, dọn dẹp thư phòng, sắp xếp cho ông ở lại.
Ngày hôm sau, Thường trung lang lấy ra hai mươi lạng bạc trắng, mười tấm lụa màu, đích thân mang đến thư phòng làm quà ra mắt. Ông bàn bạc với Mã Chu về việc hoàng đế hạ thánh chỉ cầu tấu chương. Mã Chu nói: “Việc này không khó!” Lập tức lấy bút ra, viết một mạch xong hai mươi điều kiến nghị. Thường Hà xem xong, vô cùng khâm phục, sai người chép lại cẩn thận ngay trong đêm.
Sáng hôm sau, Thường trung lang dâng tấu chương lên cho hoàng đế xem. Hoàng đế Thái Tông xem xong, khen ngợi từng điều, liền hỏi Thường trung lang: “Kiến thức như vậy, không phải của ái khanh, ái khanh lấy từ đâu ra?”
Thường trung lang quỳ xuống đất, nói: “Tội thần đáng chết! Đây thực sự không phải là kiến nghị của thần, mà là của tiên sinh Mã Chu trong nhà thần viết.”
Đường Thái Tông hỏi tiếp: “Mã Chu ở đâu? Lập tức cho gọi ông ta đến gặp trẫm.”
Thái giám lập tức đến nhà Thường trung lang, cho gọi Mã Chu đến gặp vua. Mã Chu đến điện Kim Loan, hành đại lễ. Đường Thái Tông hỏi ông: “Ái khanh là người ở đâu? Đã từng làm quan chưa?”
Mã Chu trả lời: “Thần là người huyện Sáp Bình, từng làm trợ giáo ở Bác Châu, vì không được như ý, nên bỏ quan đi chu du ở kinh đô. Hôm nay được diện kiến thiên nhan, thực sự là may mắn vạn phần.”
Đường Thái Tông vô cùng vui mừng, lập tức phong Mã Chu làm giám sát ngự sử, ban cho áo choàng, hốt và đai quan.

Bài thơ “Tái họa” của Phùng Sơn thời Bắc Tống viết: “Tam thuật khởi Thương Ưởng, nhất ngôn quý Mã Chu”, chính là miêu tả cảnh Mã Chu gặp được minh quân Đường Thái Tông, được tán thưởng và trọng dụng.
Mã Chu mặc áo vào, tạ ơn rồi ra về, vẫn trở về nhà Thường trung lang, bái tạ ơn tiến cử. Thường trung lang mở tiệc lớn, nâng cốc chúc mừng. Đến tối tan tiệc, Thường trung lang không dám để Mã Chu ở trong thư phòng nữa, liền sai người hầu chuẩn bị kiệu, đưa ông đến nhà người họ hàng là Vương thị. Mã Chu vội nói: “Vương thị không phải là họ hàng của tôi, chỉ là tôi ở trọ nhà bà ấy thôi.”
Thường trung lang nghe xong, kinh ngạc: “Ngự sử công có gia quyến không?” Mã Chu lắc đầu: “Xấu hổ quá! Vì nhà nghèo, nên đến nay vẫn chưa lấy vợ.” Thường trung lang cảm thán: “Viên Thiên Cang từng xem tướng cho Vương thị, nói bà có tướng mệnh nhất phẩm phu nhân! Gặp nhau tình cờ, chính là duyên trời, ngự sử công nếu không chê, ngày mai hạ quan sẽ đi làm mai mối thì sao?”
Mã Chu cảm kích Vương thị đã tiếp đãi ân cần, cũng có ý đó, liền nói: “Nếu được tiền bối tác thành, xin vô cùng cảm kích.” Đêm đó, Mã Chu vẫn ở lại nhà Thường.
Ngày hôm sau, Mã Chu lại cùng Thường trung lang diện kiến vua. Lúc đó, Đột Quyết phản loạn, Đường Thái Tông đang cử bốn vị tổng quản xuất binh chinh phạt, lệnh cho Mã Chu hiến kế sách bình định phản loạn. Mã Chu ở điện Kim Loan nói thao thao bất tuyệt, như nước chảy mây trôi, câu nào cũng hợp ý hoàng đế, lại được phong làm cấp sự trung. Thường trung lang có công tiến cử người hiền, được ban thưởng một trăm tấm lụa. Thường trung lang tạ ơn ra về, dẫn theo tùy tùng, cưỡi ngựa đến thẳng cửa hàng bánh bao, mời Vương thị ra gặp.
Vương thị tưởng Thường trung lang mang theo một trăm tấm lụa đến là để ép bà làm thiếp, vội vàng trốn vào trong, không chịu ra. Thường trung lang sai quản gia tìm một bà hàng xóm, nhờ bà truyền đạt lại toàn bộ câu chuyện cầu hôn cho Mã Chu và việc Mã Chu được làm quan. Vương thị lúc này mới biết giấc mơ ngựa trắng hóa rồng quả nhiên ứng nghiệm, đây là duyên trời ban, không thể trái được. Thường trung lang dùng một trăm tấm lụa được ban thưởng làm sính lễ, thay Mã Chu làm lễ hỏi; thuê một căn nhà lớn, cho Mã Chu ở. Chọn ngày lành tháng tốt, Mã Chu và Vương thị thành thân, văn võ bá quan đều đến chúc mừng.
Từ khi Mã Chu gặp được hoàng đế Thái Tông, hoàng đế đối với ông lời nào cũng nghe, can gián nào cũng theo, chưa đầy ba năm, Mã Chu đã làm đến chức lại bộ thượng thư, Vương thị được phong làm nhất phẩm phu nhân. Chủ quán trọ Tân Phong Vương Công nghe tin Mã Chu phát đạt, đặc biệt đến Trường An bái kiến. Ông đến phố Vạn Thọ thăm cháu gái trước, nhưng không tìm thấy cửa hàng bánh bao, hỏi hàng xóm mới biết cháu gái đã ở góa nhiều năm, nay đã tái giá với Mã thượng thư. Vương Công vô cùng vui mừng, vội vàng đến phủ thượng thư đưa thiệp.
Vợ chồng Mã Chu biết Vương Công đến thăm, đích thân ra đón vào trong, bày tiệc rượu đãi. Vương Công ở nhà Mã Chu hơn một tháng, cáo từ ra về. Mã Chu tặng ông một ngàn lượng bạc trắng, Vương Công không chịu nhận. Mã Chu nói: “Những câu thơ trên tường vẫn còn đó, một bữa cơm ngàn vàng, tôi sao có thể quên được?” Vương Công lúc này mới nhận lấy, cảm tạ rồi ra về, sau này trở thành một người giàu có ở Tân Phong.
Nói lại về thái thú Đạt Hề, vì mẹ mất nên về quê chịu tang ba năm, mãn tang đến kinh đô chờ bổ nhiệm, mới biết lại bộ thượng thư là Mã Chu. Ông vì trước đây đã đắc tội với Mã Chu, nên không dám đến lại bộ báo danh chờ bổ nhiệm. Mã Chu biết chuyện này, vội vàng sai người mời ông đến gặp. Đạt Hề không còn cách nào khác, đành phải cứng đầu đến phủ thượng thư xin tội. Ông quỳ lạy dưới đất, nói: “Có mắt không thấy Thái Sơn, cúi xin tha tội.”
Mã Chu vội vàng đỡ ông dậy, nói: “Lúc đó vì rượu mà lỡ việc, là Mã Chu sai. Trách nhiệm của thái thú là đúng, đâu có sai? Thái thú không cần phải để tâm nữa!” Vài ngày sau, ông tiến cử Đạt Hề làm kinh triệu doãn. Các quan viên ở kinh đô thấy Mã Chu độ lượng rộng rãi, không ai không kính phục.
Sau này, Mã Chu cả đời giàu sang, sống với Vương thị đến già, hậu thế có thơ than rằng:
Nhất đại danh thần thuộc tửu nhân,
Mại đôi Vương ẩu diệc kỳ nhân.
Thời nhân bất cụ Ba Tư nhãn,
Uổng sử minh châu hỗn tục trần.
Dịch thơ:
Bậc đại danh thần vốn kẻ say,
Nàng Vương bán bánh cũng người hay.
Người đời thiếu mắt Ba Tư ấy,
Sao để minh châu lấm bụi này.
Đường Thái Tông từng ban cho Mã Chu bức thư pháp phi bạch viết: “Loan phượng xung tiêu, tất giả vũ dực; cổ quăng chi ký, yếu tại trung lực.” (Phượng hoàng bay lên trời, phải nhờ vào đôi cánh; việc giao phó trọng trách cho bề tôi, cốt ở lòng trung thành và sức lực.) Hết lời ca ngợi tài năng và lòng trung thành của Mã Chu trong việc phò tá đất nước. Mã Chu mất vào năm Trinh Quán thứ hai mươi hai, hưởng thọ bốn mươi tám tuổi, được truy tặng chức u châu đô đốc, chôn cất ở Chiêu Lăng. Cao Tông lên ngôi, truy tặng chức thượng thư hữu bộc xạ, Cao Đường huyện công. Những năm Thùy Củng, được thờ trong miếu của Cao Tông. Con trai của Mã Chu là Mã Tái vào những năm Hàm Hanh thời Đường Cao Tông đã thăng chức đến lại bộ thị lang, giỏi việc phân biệt và tuyển chọn quan lại, được người đời ca ngợi.
Nguồn tư liệu: “Dụ thế minh ngôn”, “Cựu Đường thư”, “Tân Đường thư”
- Trọn bộ Nhân sinh cổ đạo
Theo Epoch Times