Từ ngàn xưa, chữ Hiếu luôn được coi trọng và đứng đầu trong tất cả những đức hạnh của con người. Người có hiếu luôn được xã hội biểu dương và là tấm gương cho con cháu noi theo. Rất nhiều câu chuyện lịch sử cũng cho thấy, người con làm tròn đạo Hiếu có thể cảm động Trời và gieo nhân duyên tốt lành cho chính mình.
Vua Ngu Thuấn: Hiếu cảm động Trời
Một vị vua trong Ngũ Đế thời thượng cổ họ Diêu tên Thuấn, là một trang hiếu tử. Sau được vua Nghiêu, hiệu là Đào Đường gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, rồi lại truyền ngôi báu cho. Vua Thuấn lên ngôi đặt niên hiệu là Đường Ngu.
Nguyên cha của Thuấn là người hung bạo, không phân biệt được người hay kẻ dở, người đương thời đặt tên là Cổ Tẩu (người mù mắt). Mẹ của Thuấn mất sớm, Cổ Tẩu với người vợ kế sinh ra Tượng. Vì có lời gièm pha của mẹ kế và đứa em ngỗ nghịch cùng cha khác mẹ, Cổ Tẩu không ưa Thuấn và định bụng giết đi. Biết thế, nhưng Thuấn vẫn giữ trọn chữ hiếu đối với cha và người dì ghẻ ác nghiệt, hòa thuận với đứa em độc ác, không một lời than oán.
Một lần, cha bắt Thuấn phải đi cày ở đất Lịch Sơn, một nơi có tiếng là nhiều thú dữ hay ăn thịt người. Nhưng tấm lòng hiếu thảo và hòa ái của Thuấn động đến lòng Trời, cả đàn voi ra giúp Thuấn cày đất và muông chim đáp xuống nhặt cỏ hộ. Thấy không hại được Thuấn, cha và dì ghẻ sai Thuấn đánh cá ở Hồ Lôi Trạch, nơi có nhiều sóng to gió lớn, nhưng khi Thuấn đến thì sóng lặng gió yên.
Đến khi được vua Đường Nghiêu truyền ngôi, suốt 18 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn hát khúc Nam Phong mà trị bình thiên hạ, nhà nhà đều lạc nghiệp âu ca.
Đồng Vĩnh: Dệt lụa trả công để tổ chức tang cho cha làm động lòng tiên nữ
Đồng Vĩnh sống vào thời Hậu Hán, nhà tuy nghèo nhưng rất hiếu thảo. Khi cha chết, vì trong nhà không có tiền lo việc ma chay, Vĩnh liền đến làng khác vay tiền một người nhà giàu, hứa sẽ dệt trả công 300 tấm lụa để trả vào số tiền mượn, số tiền công dệt lụa kia trội hơn gấp mấy lần tiền vay. Vay được tiền Đồng Vĩnh về lo việc tang cho cha xong xuôi, thu xếp việc gia đình rồi định đến nhà người nhà giàu để dệt trả công.
Dọc đường Đồng Vĩnh gặp được ý trung nhân, cả hai cùng nhau hứa hẹn kết làm chồng vợ, nhưng hẹn dệt xong 300 tấm lụa rồi sẽ thành hôn. Người con gái này giúp Vĩnh dệt xong 300 tấm lụa rất nhanh để trả món nợ cho người nhà giàu.
Khi cả hai cùng trở về thì người con gái lúc trước bỗng nhiên biến mất. Đó là vì lòng hiếu thảo của Đồng Vĩnh làm động lòng Trời, nên Trời mới sai tiên nữ xuống giúp.
Mạnh Tông: Thương mẹ đau ốm, khóc đến khi măng mọc để nấu canh chữa bệnh cho mẹ
Mạnh Tông là người ở đất Giang Hạ, sống vào đời Tam Quốc. Vì mồ côi cha, Mạnh Tông ở với mẹ rất có hiếu. Một hôm, bà mẹ của Mạnh Tông đau ốm, lúc nào cũng thèm ăn canh măng, nhưng bấy giờ là mùa đông, khó tìm ra măng.
Ông đi vào trong rừng tre, ngồi bên gốc tre mà khóc, bỗng đâu có mấy mục măng non từ dưới đất mọc lên. Mạnh Tông mừng rỡ mang về nhà nấu canh cho mẹ ăn, ăn xong bà mẹ liền hết bệnh.
Lòng hiếu thảo của Mạnh Tông làm cảm động lòng trời, nên măng mọc lên để giúp ông được tròn chữ hiếu. Về sau này có một loại măng màu xám được đặt tên là Măng Mạnh Tông, hình dáng trông rất đẹp mà lại ngon miệng.
Du Kiềm Lâu: Nếm phân chữa bệnh cho cha
Cũng chép là Sứu Kìm Lâu người nước Tề, nổi tiếng là chí hiếu. Khi được bổ nhiệm là Thái Thú ở quận Bình Lăng, ông đến nhậm chức được mười hôm thì bỗng thấy tâm thần bàng hoàng, mồ hôi chảy như tắm. Kiềm Lâu biết là nhà có việc chẳng lành, liền xin từ chức. Về đến nhà mới hay cha đau nặng đã hai ngày.
Kiềm Lâu lại nghe thầy thuốc nói hễ người bệnh nặng mà phân đắng thì chữa khỏi, bằng trái lại phân ngọt thì khó chữa. Ông liền nếm thử phân của cha thì thấy ngọt, lòng vô cùng lo lắng đứng ngồi không yên.
Đêm đêm ông đốt hương nhắm sao Bắc Đẩu mà khấn xin được chết thay cha. Sau ông nằm mơ thấy có một người cầm một thẻ vàng có mấy chữ: Sắc trời cho bình an. Quả nhiên ngày hôm sau cha ông được khỏi bệnh ngay.
Chử Đồng Tử: Nhường khố cho cha được cưới công chúa vua Hùng
Tại Việt Nam cũng có một câu chuyện rất nổi tiếng về tấm gương hiếu hạnh được lưu truyền cho tới hôm nay, đó là câu chuyện về Chử Đồng Tử.
Theo “Lĩnh Nam Chính Quái” của Vũ Quỳnh – Kiều Phú, Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Vi Vân tại Chử Xá huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (nay là xã Văn Đức, huyện Gia Lâm). Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố che thân phải thay nhau mà mặc. Lúc già ốm, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.
Thời ấy vua Hùng Vương thứ XVIII có người con gái tên là Tiên Dung, đã đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống đàn sáo. lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ ẩn náu của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm có người bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo, Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi.
Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Viên, Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp Sư Tăng Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học Đạo. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này đây”.
Về nhà, Chử Đồng Tử giảng lại đạo Phật cho vợ nghe. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học Đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy nơi đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.
Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung – Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.
Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là chợ Hà Lương…
Những câu chuyện được lưu truyền hậu thế đã minh chứng rằng, khi người con biết lấy hiếu nghĩa làm đầu thì cũng như tích được phúc phận và tạo tương lai tốt đẹp cho chính mình.
Nhã Thanh