Chi tiết tranh “Hà đường uyên ương đồ” của họa sĩ Thẩm Thuyên, đời nhà Thanh. (Tài sản công hữu)

“Nghĩa” là một trong số những mỹ đức truyền thống Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín của con người mà Nho giáo đề xướng, tồn tại rộng rãi trong mối quan hệ vua tôi, anh em, bạn bè, và thực ra cũng tồn tại trong quan hệ vợ chồng. Trong “Hậu Hán Thư – Liệt Nữ Truyện” đã ghi lại câu chuyện của nhiều người phụ nữ huyền thoại có phẩm đức thanh cao, qua đó thể hiện sâu sắc nghĩa vợ chồng.

Sử gia Phạm Diệp, tác giả của “Hậu Hán Thư”, cho rằng những lời bàn về phẩm hạnh của người phụ nữ đã được ghi lại từ rất lâu trong “Kinh Thi”, “Kinh Thư”. Những bậc hậu phi hiền đức phò trợ quốc quân xử lý chính sự, những người phụ nữ thông tuệ giúp gia tộc hưng thịnh. Bậc cao sĩ phát huy phong thái trong sạch, thuần hậu; người phụ nữ trinh tiết thể hiện khí tiết thanh bạch, phẩm chất tốt đẹp của cả hai không hề khác nhau.

“Liệt Nữ Truyện” ghi lại, vợ của Hứa Thăng người đất Ngô là con gái nhà họ Lữ, tên tự là Vinh. Thời trẻ, Hứa Thăng là một kẻ cờ bạc, không coi trọng phẩm hạnh. Lữ Vinh thường tự mình quán xuyến gia nghiệp để phụng dưỡng mẹ chồng. Bà nhiều lần khuyên can Hứa Thăng chăm chỉ học hành, mỗi khi Hứa Thăng làm điều sai trái, bà lại rơi lệ khuyên răn.

Cha của Lữ Vinh đã bất mãn với Hứa Thăng từ lâu, bèn gọi con gái về và muốn bà tái giá. Lữ Vinh than rằng: “Số mệnh đã định, về đạo nghĩa không nên có lòng phản bội!” và nhất quyết không chịu về nhà mẹ đẻ.

Hứa Thăng từ đó vô cùng cảm kích và tự mình nỗ lực, bèn tìm thầy đi xa cầu học, cuối cùng thành danh. Không lâu sau, Hứa Thăng được châu sở tại trưng dụng, khi đi đến Thọ Xuân, không may bị cướp sát hại trên đường.

Thứ sử Doãn Diệu đã bắt được bọn cướp. Lữ Vinh trên đường đi đón linh cữu, nghe tin liền đến châu phủ, xin được báo thù rửa hận. Thứ sử đồng ý. Lữ Vinh bèn đích thân chém đầu tên cướp để tế vong linh Hứa Thăng.

Sau này, quận sở tại bị giặc cướp xâm chiếm, chúng muốn xâm phạm Lữ Vinh. Bà trèo qua tường thấp để bỏ chạy, bọn cướp rút đao đuổi theo. Tên giặc nói: “Thuận theo ta thì sống, không thuận theo thì chết.” Lữ Vinh đáp: “Đạo nghĩa không cho phép thân này chịu sự ô nhục của kẻ cướp!”

Thế rồi tên giặc đã giết Lữ Vinh. Ngày hôm đó, trời bỗng nổi gió giật mưa sa, sấm sét vang trời, sắc trời u ám. Bọn cướp kinh hãi, sợ sệt khấu đầu tạ tội rồi làm lễ an táng cho bà.

Người phụ nữ trinh liệt ấy, với chồng một lòng sống chết có nhau, lấy thân giữ tròn khí tiết, khiến trời đất cũng phải cảm động.

“Liệt Nữ Truyện” cũng ghi lại câu chuyện con gái của Hoàn Loan không tái giá. Hoàn Loan là một danh sĩ thời Đông Hán, phẩm hạnh chính trực, quang minh. Ông nghiên cứu Lục Kinh, không gì không thông suốt. Ông đem tài sản san sẻ cho những người cô quả, đem phần thưởng có được chia cho bạn bè. Ông đối đãi với hiền sĩ thì rộng lượng, nhưng với bản thân lại vô cùng tiết kiệm, thường ngày mặc áo vải thô, ăn cơm gạo lứt với rau trộn giấm.

Con gái ông gả cho Lưu Trường Khanh, người cùng quận, hai người có một con trai. Khi con trai lên năm tuổi, Lưu Trường Khanh qua đời. Vợ ông vì muốn tránh điều tiếng dị nghị của người ngoài, từ đó không về nhà mẹ đẻ thăm nom nữa. Năm con trai mười lăm tuổi, cậu bé lại yểu mệnh qua đời. Vợ ông lo rằng mình không thể tránh khỏi việc tái giá, bèn cắt tai của mình để tỏ rõ quyết tâm.

Những người phụ nữ trong họ tộc đều rất thương cảm, nói với bà: “Thực ra nhà mẹ đẻ của bà không có ý gì khác đâu; dù thật sự có đi nữa, hoàn toàn có thể nhờ các cô, các chị em bên nhà chồng nói rõ tấm lòng của bà. Tại sao phải quá coi trọng tiết nghĩa mà xem nhẹ sự an nguy của bản thân như vậy!”

Vợ ông trả lời: “Xưa kia, tôi có một vị tổ tiên tên là Ngũ Canh, nhờ học vấn mà trở thành bậc tông sư Nho học, lại được tôn làm thầy của hoàng đế. Từ đời ngài cho đến nay, gia tộc chúng tôi luôn tuân theo truyền thống chăm học tu đức. Nam giới nổi danh vì trung hiếu, nữ giới vang danh vì trinh tiết, thuận tòng. ‘Kinh Thi’ có câu: ‘Vô thiểm nhĩ tổ, duật tu quyết đức’ (Đừng làm hổ thẹn tổ tiên, hãy tu dưỡng đức hạnh của mình). Vì vậy, tôi tự cắt tai trước, để tỏ rõ lòng mình.”

Hai người phụ nữ trên đều có ý chí kiên định, lấy đạo nghĩa làm gốc rễ của con người, phẩm hạnh trinh khiết, đã thực hành trọn vẹn nghĩa vợ chồng.

Đại nghĩa phu thê còn thể hiện ở lòng hiếu thảo, cùng nhau hiếu kính cha mẹ hai bên.

Vợ của Khương Thi ở quận Quảng Hán là con gái của Bàng Thịnh, người cùng quận. Khương Thi phụng dưỡng mẹ vô cùng hiếu thuận, vợ ông hầu hạ mẹ chồng cũng hết mực kính cẩn. Mẹ ông thích uống nước sông, mà sông thì cách nhà sáu, bảy dặm. Vợ ông thường đi ngược dòng để lấy nước.

Có một lần gặp gió lớn, bà không về kịp giờ, mẹ chồng khát nước, Khương Thi bèn trách mắng và đuổi vợ về nhà mẹ đẻ. Bà bèn đến ở nhờ nhà hàng xóm, ngày đêm kéo sợi dệt vải, đổi lấy thức ăn ngon, rồi nhờ bà lão hàng xóm nhân danh mình mang đến cho mẹ chồng.

Cứ như vậy một thời gian dài, mẹ chồng cảm thấy kỳ lạ bèn hỏi bà lão hàng xóm, bà lão liền kể lại sự thật. Mẹ chồng cảm thấy hổ thẹn, bèn gọi con dâu về nhà. Từ đó, bà chăm sóc mẹ chồng càng thêm tận tâm.

Con trai bà sau này vì đi lấy nước ở xa mà chết đuối. Bà lo mẹ chồng đau lòng nên không dám nói, bèn nói dối là con trai đã ra ngoài cầu học.

Mẹ chồng thích ăn gỏi cá, nhưng lại không muốn ăn một mình. Vợ chồng bà thường vất vả chuẩn bị gỏi cá cho mẹ, rồi mời bà lão hàng xóm sang cùng dùng. Một hôm, bên cạnh nhà bỗng có một dòng suối phun lên, nước có vị như nước sông, mỗi sáng đều có hai con cá chép xuất hiện, thường được dùng để cung cấp cho hai vị lão nhân.

Tàn quân của giặc Xích Mi đi qua làng của Khương Thi, thấy vậy đều thu binh khí lại và đi qua từ tốn, nói rằng: “Kinh động đến người đại hiếu ắt sẽ chọc giận quỷ thần.”

Năm Vĩnh Bình thứ ba, Khương Thi được tiến cử Hiếu Liêm, nhậm chức Lang trung, không lâu sau được bổ nhiệm làm Giang Dương lệnh và qua đời khi đang tại chức. Khương Thi cai quản địa phương rất tốt, người dân trong làng đã lập đền thờ ông.

Nhà văn học Đông Hán Ban Chiêu đã viết “Nữ Giới” lưu truyền hậu thế, cho rằng đạo phu thê là tương ứng với trời đất âm dương. Nó có thể thông đạt với lý lẽ của thần minh, thuận theo chính đạo vĩ đại của đất trời, là một tiết tháo quan trọng trong đạo lý làm người. Vì vậy, “Lễ Ký” coi trọng việc hôn nhân của nam nữ, và bài “Quan Thư” trong “Kinh Thi” đã làm sáng tỏ ý nghĩa cốt lõi trong đó.

Ban Chiêu cũng chỉ ra rằng, tính chất của âm và dương có khác nhau, hành vi của nam và nữ cũng có sự khác biệt. Dương lấy cương kiện làm phẩm đức, Âm lấy nhu thuận làm công dụng; nam giới lấy mạnh mẽ làm cao quý, nữ giới lấy mềm yếu làm vẻ đẹp. Vì vậy, dân gian có câu: “Sinh con trai như sói, còn lo nó yếu ớt; sinh con gái như chuột, còn lo nó thành hổ.”

Do đó, người phụ nữ phải nâng cao tu dưỡng, cung kính thuận tòng. Cung kính không gì khác ngoài sự kiên trì; thuận tòng không gì khác ngoài sự khoan dung, độ lượng. Vợ chồng hòa thuận thì cả đời sẽ không chia lìa. Khi ân và nghĩa không còn, vợ chồng sẽ chia ly.

Tỷ lệ ly hôn ở Trung Quốc đại lục đương thời rất cao, thậm chí số vụ ly hôn còn nhiều hơn số vụ kết hôn, đây chính là biểu hiện của việc đạo đức và lòng người mất kiểm soát trong thời mạt pháp mạt thế. Tôn giáo cho rằng, giữa vợ và chồng không chỉ có tình duyên, mà còn có cả ân oán. Mà ân oán này có thể không chỉ là duyên phận của một đời một kiếp. Vì vậy, khi biết nghĩ đến cái ân, cái nghĩa vợ chồng, người ta sẽ không gây ra lỗi lầm lớn!

Theo Epoch Times