Bagatelles, Op. 126 của Beethoven được viết dành riêng cho anh trai Nikolaus Johann van Beethoven (1776-1848), được xuất bản muộn trong sự nghiệp, vào năm 1825. Beethoven đã viết cho nhà xuất bản của mình, Schott Music, rằng Opus 126 Bagatelles “có lẽ là tác phẩm hay nhất tôi từng viết”.
Một bagatelle, theo cách sử dụng của Beethoven, là một loại tiểu phẩm ngắn gọn. Bộ này bao gồm sáu tác phẩm ngắn, như sau:
No. 1, Andante con moto, Cantabile e compiacevole, G Major, 3/4 thời gian.
No. 2, Allegro, Sol thứ, 2/4.
No. 3, Andante, Cantabile e grazioso, Mi giáng trưởng, 3/4.
No. 4, Presto, Si thứ, cắt giảm thời gian.
No. 5, Quasi allegretto, Sol trưởng, 6/8.
No. 6, Presto, cắt thời gian rồi Andante amabile e con moto, Mi giáng trưởng, 3/8.
Tuy bộ sưu tập này bao gồm 6 tác phẩm ngắn nhưng Beethoven muốn mọi người coi nó là một tác phẩm hoàn chỉnh. Trong các nhận xét ban đầu cho ấn bản các tác phẩm của mình, Otto von Irmer lưu ý rằng Beethoven dự định sáu bagatelles được chơi như một tác phẩm duy nhất, ít nhất là trong chừng mự. Điều này có thể được suy ra từ một chú thích bên lề mà Beethoven thực hiện trong bản thảo: “Ciclus von Kleinigkeiten “(chu kỳ của những đoạn nhạc). Lewis Lockwood gợi ý một lý do khác để coi tác phẩm là một thể thống nhất chứ không phải là một bộ sưu tập.
Clip là trọn vẹn tác phẩm biểu diễn bởi nghệ sỹ Nikita Mndoyants:
Bản No. 1 truyền tải cảm giác yên bình thơ mộng với những nét nhạc luyến lấp lánh kéo dài thật quyến rũ và lôi cuốn. Và với phong cách vừa bài bản cổ điển, vừa lãng mạn phiêu linh, cho thính giả thấy những tiếng thở tuyệt đẹp đầy cảm xúc của nội tâm người nghệ sỹ.
Bản No. 2 chơi trên nhịp nhanh Allegro tươi vui và thánh thiện, có thể khiến thính giả liên tưởng nhanh về những nét nhạc trí tuệ của thời Baropue được cường điệu bằng những biến tấu sáng táo, phức điệu và chắp thêm đôi cánh của sự lãng mạn muôn màu. Đấy là chưa nói đến giá trị tương phản nghệ thuật mà nó mang lại khi được xếp đằng sau bản No. 1.
Bản No. 3 lắng đọng trong nhịp chậm Andante và trên cung nhạc Mi giáng trưởng thật mỹ miều tinh khôi, lôi cuốn toàn bộ thế giới tâm hồn của thính giả.
Bản No. 4 có lẽ phô diễn vẻ đẹp huyền bí của giọng Si thứ trên những vũ điệu đệm khỏe mạnh – điểm nhấn cho sự bùng nổ cao trào của toàn bộ bản nhạc, trong khi tay phải vẽ lên những nét tinh thần trong sáng, tinh tế sinh động. Và nhịp nhanh Presto chắc chắn đã làm gia tăng nhiều lần vẻ đẹp kỳ lạ của chương nhạc No. 4 này.
Bản No. 5 quay về những ngọt ngào trong sáng lãng mạn trên cung nhạc SOl trưởng, và những nét nhạc đẹp đẽ ấy tung tăng trên nhịp valse 6/8 bồng bềnh, khiến những gì là sâu lắng tinh khôi nhất đọng lại và tỏa sáng trong những miền ký ức của thính giả.
Bản No. 6 mở đầu bằng một nét nhạc trên nhịp rất nhanh Presto, khiến trái tim thính giả rộng mở với toàn bộ sự nồng hậu vốn có của nó, nhưng bỗng nét nhạc ấy vụt tắt giống như một cánh cửa được mở toang, để thính giả nhìn vào sự chậm sâu kín từ tận đáy lòng. Đó chính là cách phát triển nghệ thuật vĩ đại của tác giả, ông đã dẫn dắt thính giả vào nhịp chậm Andante amabile e con moto như thế. Vậy mà, còn bất ngờ hơn nữa, No. 6 kết thúc bằng một câu nhạc nhanh không kém, cũng giống như cánh cửa ấy đóng lại, như một dấu chấm tròn trĩnh được đặt xuống cho bản No. 6 cũng như cho toàn bộ tuyển tập Bagatells này.
Ghi chú:
Theo Wikipedia tiếng Việt, Bagatelle là một bản nhạc ngắn, thường dành cho piano, thường có giai điệu nhẹ nhàng thư giãn. bagatelle có nghĩa là “một bản hòa tấu khiêm tốn” do thường nghiêng về phong cách nhẹ nhàng. Dù bagatelle thường được viết cho piano độc tấu, nhưng nó cũng được viết cho các nhạc cụ như đàn piano bốn tay, phong cầm, thụ cầm, organ, ghi ta cổ điển, Vibraphone, violin….