“Diel Forelle” (Cá hồi) được Franz Schubert viết vào năm 1817 là một đoản ca ngắn hết sức lôi cuốn dựa trên ba khổ đầu từ bài thơ xinh xắn gồm bốn khổ viết năm 1783 của Christian Daniel Schubart.
Trong âm nhạc của F.Schubert, thiên nhiên luôn tràn trề sức sống và vô cùng kỳ thú. Đặc biệt là biển cả và những dòng sông luôn hấp dẫn ông. Schubert cho rằng những đặc tính của nước như tiếng suối chảy róc rách, dòng sông chảy cuồn cuộn, sự hùng vĩ bao la của biển, lúc yên bình bất động, lúc hung dữ uy nghiêm phải được khắc đậm trong âm nhạc của ông. Điển hình cho đặc tính hết sức thâm sâu ấy chính là Lied(*): “Diel Forelle”.
Schubert đã tạo ra một sức cuốn hút mới mẻ cho lời thơ qua những cách tân trang lối phổ thơ và qua những thủ pháp biểu đạt độc đáo bằng âm nhạc.
Trong lied của Schubert, người kể chuyện miêu tả cảnh một con cá hồi bơi lội tung tăng trong dòng suối và sự khó chịu của bản thân khi thấy ngư ông bắt được cá bằng cách bất minh.
Câu nhạc gồm sáu nốt nổi tiếng hình thành bởi âm điệu nhấp nhô vui tươi của bè đệm piano kết hợp với việc sử dụng quãng nhảy gợi lên hình tượng những con cá hồi đang bơi lội trong làn nước trong.
Giai điệu nhẹ nhàng yên bình bỗng chuyển biến khi ngư ông khuấy bùn làm đục nước để bắt cá, cả giọng ca và bè đệm piano chuyển sang tông trầm hơn, tạo nên cảm giác một màn kịch ngắn đang diễn ra.
Mời quý độc giả thưởng thức “Diel Forelle” một trong những lieder tiêu biểu trong gia tài 600 lieder của Schubert dưới sự trình bày của giọng baritone: Dietrich Fischer-Dieskau và đệm đàn piano: Gerald Moore
Die Forelle
In einem Bächlein helle,
Da schoß in froher Eil
Die launische Forelle
Vorüber wie ein Pfeil.
Ich stand an dem Gestade
Und sah in süßer Ruh
Des muntern Fischleins Bade
Im klaren Bächlein zu.
Ein Fischer mit der Rute
Wohl an dem Ufer stand,
Und sah’s mit kaltem Blute,
Wie sich das Fischlein wand.
So lang dem Wasser Helle,
So dacht ich, nicht gebricht,
So fängt er die Forelle
Mit seiner Angel nicht.
Doch endlich ward dem Diebe
Die Zeit zu lang. Er macht
Das Bächlein tückisch trübe,
Und eh ich es gedacht,
So zuckte seine Rute,
Das Fischlein zappelt dran,
Und ich mit regem Blute
Sah die Betrogene an.
Tạm dịch:
Con cá hồi
Trong dòng suối trong vắt
Với dòng chảy gấp rút
Cá hồi bơi vội vàng
Và lao đi như tên bắn,
Tôi đứng ngay trên bờ
Ngắm nhìn cảnh thú vị
Về cá hồi tung tăng
Trong dòng suối trong ngần.
Ngư ông với chiếc cần
Cũng đứng trên bờ suối
Dùng ánh mắt lạnh giá
Tìm thời cơ bắt cá.
Tôi từng nghĩ rằng
Miễn là nước còn trong
Ngư ông với chiếc cần
Không thể nào bắt cá
Mệt mỏi mất kiên nhẫn
Ngư ông bèn láu lỉnh
Khuấy cho nước đục ngầu.
Tôi còn chưa kịp hiểu
Thì cần câu giật giật
Và cá đã cắn câu
Tôi nhìn thấy nhiều máu
Nhưng cá vẫn cứ quẫy.
Sau hai năm kể từ khi sáng tác, “Die Forelle” đã thành công vang dội và trở thành tâm điểm của các buổi hòa nhạc. Chính vì vậy Schubert đã sử dụng lied này làm cơ sở để viết thêm bản “Ngũ tấu Cá hồi” (Trout Quintet).
Phần nào khác với các ngũ tấu piano và đàn dây thông thường (viết cho hai violin, viola, cello và piano), bản ngũ tấu này giảm đi một violin và có sự góp mặt của contrabass.
Dưới đây là chương IV của bản “Ngũ tấu Cá hồi” ở giọng La trưởng:
Franz Schubert – Nhà soạn nhạc trữ tình vĩ đại nhưng lại rất nghèo
Đời sống của Schubert giản dị và ngắn ngủi, hầu như chỉ ở thành phố Vienna, không phải trong những tòa lâu đài lộng lẫy nơi Mozart được đón tiếp khi đang là một thần đồng, nơi Haydn được hoan nghênh nồng nhiệt và Beethoven còn tìm được những người hâm mộ.
Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 trong một gia đình bố là nhà giáo có nề nếp. Nhà Schubert nghèo, chỉ là một căn nhà nhỏ bé ở ngoại ô thành Vienna. Schubert cất tiếng khóc chào đời và vĩnh biệt cuộc đời cũng ở dưới mái nhà này.
Cũng là một thần đồng âm nhạc như Mozart, chỉ khác là bố Schubert không có trình độ nhạc giỏi như ông Leopold – bố của Mozart, để đào tạo được Schubert thành một “Mozart” thứ hai. Không có tiền thuê thầy dạy, cho nên Schubert được học nhạc muộn hơn so với Mozart.
Tuy vậy Schubert cũng được bố dạy chơi đàn violon, và cha cố Holxero dạy lý thuyết âm nhạc và chơi đàn organ. Ông Holxero nhớ lại: “Khi tôi muốn giới thiệu cho Franz (Schubert) một cái gì mới thì hóa ra cậu ta đã biết rồi… Do đó không phải tôi dạy, mà là nói chuyện với anh ta để rồi ngạc nhiên vì sự hiểu biết của cậu ấy…”.
Nếu như gọi Beethoven là người anh hùng, là nhà cách mạng vĩ đại trong lĩnh vực âm nhạc, thì phải gọi Schubert là nhà trữ tình vĩ đại. Mọi vấn đề của cuộc sống, quan hệ giữa con người với con người và với hiện thực bao quanh, Schubert đều nhìn nhận và thể hiện bằng những cảm xúc âm nhạc trữ tình
Schubert sáng tác đủ các thể loại âm nhạc: giao hưởng, Sonata, nhạc thính phòng, lieder. Schubert là người đầu tiên đưa bài hát đến tầm khái quát cao, đồng thời giữ được vẻ tự nhiên ban đầu của nó. Schubert trở nên bất tử qua 600 lieder mà ông sáng tác.
Một số lied của Schubert được sắp xếp theo những chuỗi hay liên khúc thuật lại một câu chuyện, một cuộc phiêu lưu của tâm hồn hơn là thể xác, như các tập liên khúc Die schöne Müllerin (Cô thợ xay xinh đẹp) gồm 20 bài và Winterreise (Hành trình mùa đông) gồm 24 bài. Một số lied của Schubert lại giống như những màn kịch ngắn, trong đó hình tượng âm nhạc cho từng nhân vật được ông sáng tạo rất sinh động như Erlkönig (Chúa rừng) hay Der Tod und das Mädchen (Thần Chết và trinh nữ), Die Forelle (Con cá hồi)..v.v.
Schubert ra đi vào ngày 19 tháng 11 năm 1828, vì thiếu thốn, bệnh tật, kiệt sức. Bi kịch trong đời người nghệ sĩ này là cho đến khi chết hầu như không được dự một cuộc trình diễn nào những tác phẩm lớn của mình.
Bản “Giao hưởng bỏ dở” nổi tiếng của ông viết năm 1822. Khi ông còn sống, tổng phổ bị thất lạc. Người ta chỉ tìm lại được sau khi ông chết mấy chục năm.
Cả cuộc đời của Schubert gắn liền với vùng ngoại ô Viên, nơi những căn nhà nhỏ bé và lụp xụp, đời sống dân chúng thì nghèo khó. Ông không biết được sự thành công rực rỡ nào, không đóng một vai trò gì đáng kể trong đời sống âm nhạc thời ấy. Nhưng hậu thế luôn nhắc đến những cống hiến to lớn của ông cho kho tàng âm nhạc của nhân loại. Bia mộ của ông ghi dòng chữ: “Ở đây, cái chết đã chôn vùi một kho báu và cả những niềm hy vọng còn quí báu hơn”.
Hoàng Lâm
Chú thích:
(*) Lied (số nhiều: Lieder): là một từ tiếng Đức có nghĩa là “bài ca”,là một dạng nhạc phổ từ những bài thơ lãng mạn tiếng Đức. Trong âm nhạc cổ điển Schubert được mệnh danh là “Vua lied”.