Cách đây non một thế kỷ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã viết những vần thơ buồn tao khiết về “Ông đồ”, mà theo lời thi nhân là “cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn”. Hôm nay, trong dòng chảy lớn của xã hội hiện đại, không ít người cảm thấy lạc lối, chông chênh tìm về cái hồn dân tộc, bến neo đậu trong những nổi trôi của kiếp người.

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực Tàu, giấy đỏ

Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài:

“Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa, rồng bay”

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ? 

(Vũ Đình Liên, 1936)

Thuở xưa, người Việt ta đều coi trọng những bậc trí thức, hay chữ. Ngày xuân, còn gì vui thú mà thanh tao bằng xin được thầy đồ một câu đối Tết, hay một chữ Phúc, chữ Đức treo trong nhà. Viết chữ không chỉ là phương tiện truyền tải thông tin phàm tục như cách gõ máy tính, nhắn tin điện thoại ngày nay; viết chữ còn là thú vui tao nhã; và sâu sắc hơn, đó là quá trình tu dưỡng nội tâm, đạt tới cảnh giới trang nghiêm chính trực mà khoáng đạt bao dung, tìm về với Đạo.

Hinh ảnh ông đồ quen thuộc trong tết cổ truyền xưa. (Ảnh minh họa: youtube.com)

Nói về công phu luyện chữ để hoà mình với Đạo, không thể quên nhắc tới Vương Hy Chi, nhà thư pháp vĩ đại đời Đông Tấn, được mệnh danh là “Thư Thánh” (Ông Thánh về thư pháp). Chữ của ông bay lượn lại đoan chính, chân thực rành mạch lại ẩn chứa sâu xa, tư thế tự nhiên, đem lại cảm giác đẹp tĩnh lặng, được ca ngợi là “Bay lượn như mây trôi, khỏe khoắn như rồng tỉnh”.

***

Vương Hy Chi từ nhỏ đã thích viết chữ, lúc lên 10, ông đã viết chữ rất đoan chính, năm 12 tuổi, trong thư tịch lưu giữ của cha, ông đã phát hiện ra có quyển “Bút luận” của tiền nhân viết, bèn lẳng lặng lấy ra cẩn thận xem. Sau đó cha ông phát hiện ra, sợ ông xem không hiểu, nên cha ông đã nói: “Đợi con lớn lên, cha sẽ cho con xem”. Vương Hy Chi quỳ xuống nói: “Bây giờ cho con xem sách này và dạy con thư pháp có được không?” Cha ông vui mừng nói:

“Được rồi. Con nhất định phải ghi nhớ, học thư pháp không chỉ giới hạn ở bút giấy mực, điều quan trọng hơn là phải nghiên cứu học vấn của viết chữ và làm người. Chỉ có nhân phẩm cao thượng thì thư pháp mới có thể siêu phàm nhập Thánh”.

Vương Hy Chi ghi nhớ lời dạy của cha, ngày đêm đọc các loại kinh sách và “Bút luận”, cần học khổ luyện. Do thường đến hồ tập viết, rửa nghiên mực, thời gian kéo dài, nước hồ đã đen như mực, mọi người gọi là “hồ mực”.

Tương truyền Vương Hy Chi có một lần đến núi Thiên Thai Thần kỳ tú lệ, quang cảnh trên núi khiến thư pháp của ông được thêm sắc thái, nhưng ông vẫn không hài lòng với chữ mình viết. Bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc trắng, cười hà hà nói với ông: “Chữ của con viết cũng khá đó”. Vương Hy Chi nói: “Đâu có, bút lực vẫn chưa đủ, xin cụ chỉ giáo”. Cụ già cầm bút viết một chữ “Vĩnh”, nói: “Ta xem con có chí kiên cường, lòng chân thành học viết chữ, nên để con lĩnh ngộ một bút quyết. Hãy viết tốt chữ ‘Vĩnh’ này, công phu đích thực của thư pháp nằm ở trong đó”.

Vương Hy Chi. (Ảnh: echishuyuan.com)

Cụ già giảng giải cho ông đưa bút và kết cấu của từng nét, đồng thời nói cho ông biết, viết chữ cần tịnh tâm, cần vĩnh viễn bảo trì tâm cảnh cao khiết. Vương Hy Chi bỗng thấy lòng trong mắt sáng, liên tiếp bái tạ ân dạy bảo của tiên sinh, khi nhìn lại đã thấy cụ già phiêu du đi mất. Vương Hy Chi vội vàng gọi to: “Tiên sinh nhà ở nơi nào?” Chỉ nghe thấy từ không trung thấp thoáng truyền đến: “Thư pháp của khanh đã cảm động đến ta, ta là Bạch Vân núi Thiên Thai…”

Sau khi Vương Hy Chi được Bạch Vân tiên sinh chỉ giáo, luyện chữ càng nỗ lực, tương truyền ông mất 15 năm để luyện viết một chữ “Vĩnh” này. Người đời sau gọi kỳ tích này của ông bằng câu: “Dụng tâm thập ngũ niên, thủy công nhất vĩnh tự” với ý nghĩa: “Dụng tâm ròng rã 15 năm, khởi đầu bằng một chữ Vĩnh”.

Vương Hy Chi đã thu được sở trường của mọi danh gia, lại giỏi về các thể chữ lệ, chính (chân), hành, thảo, đặc biệt xuất sắc là lệ thư. Khi viết, ông dùng phong thái đĩnh đạc, bình tĩnh tự nhiên, cử chỉ uyển chuyển, người thường hay dùng Tào Thực trong “Lạc Thần Phú” để tán thưởng vẻ đẹp thư pháp của Vương Hy Chi: “Phiêu nhã kinh hồng, uyển nhã du lang, vinh diệu thu cúc, hoa mạn xuân tùng. Phỏng phật hề nhã khinh vân chi tế nguyệt, phiêu diêu hề nhã lưu phong chi hồi tuyết“. Nghĩa là: “Nhẹ nhàng như chim hồng bay, uyển chuyển như rồng lượn, rực rỡ như cúc mùa thu, tươi rạng như tùng mùa xuân. Phảng phất như mặt trăng bị mây nhẹ che lấp, phiêu diêu như tuyết bị gió thổi cuốn lên”.

Một lần, Tấn Nguyên Đế muốn đến ngoại ô phía bắc lễ tế, bảo Vương Hy Chi viết lời khấn lên một tấm gỗ, sau đó sai thợ mộc điêu khắc. Khi thợ mộc điêu khắc đã vô cùng kinh ngạc, bút tích ăn sâu vào gỗ hơn 3 phân. Câu thành ngữ “Nhập mộc tam phân” cũng có nguồn gốc từ đây.

Vương Hy Chi do tài hoa xuất chúng nên được triều đình bổ nhiệm làm Thứ sử, Hữu quân tướng quân (mọi người cũng gọi ông là Vương Hữu Quân). Ông coi nhẹ danh lợi, yêu thương dân như con. Khi ông nhậm chức Quận thú Cối Kê, đúng lúc địa phương đang gặp nạn hạn hán. Việc đầu tiên, ông mở kho lương phát chẩn, cứu trợ bách tính, sau đó làm báo cáo tường tận về thiên tai, nhiều lần dâng thư yêu cầu miễn giảm thuế khóa lao dịch, vì dân thỉnh mệnh. Tuy là quan địa phương, nhưng đối với các việc đại sự quốc gia như tệ nạn chính trị quốc gia, nguyện vọng của bách tính, đều trực ngôn can gián, do đó đã khiến giới quyền quý phẫn nộ. Ông quả quyết từ quan, quyết không đứng cùng hàng ngũ với thế lực hắc ám.

Vương Hy Chi trước sau luôn giữ bản sắc chất phác, chân thật, thành tâm tín Đạo, tu Đạo. Mỹ văn diệu bút của ông như “Lan Đình Tự”, “Thập Thất Thiếp”… là những hòn ngọc quý xán lạn của nghệ thuật thư pháp cổ đại. Ông cảm thụ cái đẹp của trời đất, tạo hóa, tự nhiên vạn vật, tìm tòi cái tinh vi huyền diệu thâm sâu của vũ trụ bằng cái tâm thuần chính, đã ấn chứng vào thư pháp. Trong sách “Thư Đoạn”, ông có viết: “Thiên biến vạn hóa, đặc được Thần công, không phải Tạo hóa truyền linh cảm, sao có thể tạo được đỉnh cao cực đỉnh như thế này”. Trong thơ “Lan Đình” ông có viết: “To lớn thay công Tạo hóa, vạn cái đẹp không cái nào giống cái nào”. Trong thư viết cho bạn “Thập Thất Thiếp”, ông đã biểu đạt lòng quan tâm yêu thương bạn và tư tưởng tôn Đạo ái dân.

kiệt tác ‘Lan Đình tập tự’ của Vương Hy Chi. (Ảnh: wikipedia.org)

Ông đã tổng kết nghệ thuật viết chữ như thế này: “Thư pháp quý ở tay trầm tĩnh, hàm ý ở trước bút, cự ở sau tâm, bắt đầu từ khi chưa viết, kết tinh tư tưởng mà thành vậy”, “Tranh trước không phải việc của ta, tĩnh lặng quán chiếu ở vô cầu”. Ông cho rằng, tĩnh tâm ngưng thần, tâm chính khí hòa, thì mới có thể viết thư pháp đẹp được.

Thư phẩm của Vương Hy Chi cũng như nhân phẩm của ông vậy, thanh tú siêu dật, tinh diệu tuyệt luân. Lý Bạch ca ngợi rằng: “Hữu Quân vốn thanh chân, siêu thoát xuất phong trần…, lụa trắng viết Đạo kinh, bút tinh diệu như Thần” (Vương Hữu Quân). Đường Thái Tông Lý Thế Dân đánh giá thư pháp Vương Hy Chi “Tận thiện tận mỹ”, sánh với tính cách ông “xứng danh cốt cách ‘Ngạnh cốt’”, tức thẳng thắn, chính trực. Thái Tông còn đích thân viết sách “Vương Hy Chi truyện luận”, đề xướng khắp thiên hạ học tập thể chữ Vương Hy Chi, nhất là lệ thư.

(Theo “Tinh thần bút mực” – Minh Huệ Net)

***

Dương Hùng, nhà văn học Tây Hán, nói rằng: “Chữ cũng là tâm người viết. Tâm vẽ ra hình mà có thể phân biệt được người chính hay tà”. Một người có tính cách vững vàng thì mỗi một nét chữ đều thể hiện ra sự sạch sẽ gọn gàng, ngay ngắn cứng cỏi; mà người có tính cách yếu mềm, thì dáng chữ lại phần nhiều yếu nhược. Mọi người thưởng thức cái đẹp của thư pháp Vương Hy Chi, điều quan trọng hơn là thưởng thức chính khí và cốt cách mà văn nhân trí thức cần phải có.

Tuy không phải ai trong chúng ta cũng có thể trở thành Vương Hy Chi, nhưng mỗi người đều có thể thông qua rèn luyện nét bút mà nuôi dưỡng cho mình sự đoan chính, vững vàng, cẩn trọng, mà không kém phần uyển chuyển, hoà nhã, bao dung.

Thanh Ngọc