Tết đến Xuân về, có lẽ ai trong chúng ta cũng nhớ tới cha mẹ của mình, mong làm tròn Hiếu đạo. Tuy nhiên, một chữ Hiếu cũng có nhiều tầng thứ. Đó là những tầng thứ nào?
‘Ta chỉ cần con dùng thiện đức mà hiếu thuận, không cần con phải làm quan cao lộc lớn mà phụng dưỡng’
Vào thời nhà Tống có một triết học gia nổi tiếng tên là Trình Di, cũng được gọi là Y Xuyên tiên sinh. Ông có một người học trò, tên là Doãn Đôn.
Mẹ của Doãn Đôn tên là Trần Thị, bà xử lý các việc trong nhà từ trước đến nay đều nghiêm túc, chỉnh tề, mặc dù gia cảnh thanh bần kham khổ, nhưng trong nhà vẫn luôn sạch sẽ, gọn gàng. Cuộc sống của gia đình Doãn Đôn khá bình thản, người ta cũng không nhìn thấy người nhà họ Doãn mang nét mặt buồn bã lo lắng bao giờ. Doãn Đôn từ nhỏ được mẹ giáo dục ngôn hành cử chỉ phải đúng mực phù hợp lễ nghĩa. Doãn Đôn lớn hơn một chút, lại được mẹ dạy đọc sách Thánh hiền.
Trần Thị nghe nói rằng, Y Xuyên tiên sinh Trình Di hết lòng dạy bảo các môn sinh, vì thế nên bảo con trai đến bái ông làm thầy.
Trước khi Doãn Đôn lên đường, mẹ ông khuyên bảo rằng, phàm là tìm cầu học hỏi thì nhất định phải học đến tận căn nguyên nguồn cội, nhất định phải học hiểu kinh sách, minh bạch rõ ràng mới được. Nếu như đọc sách mà không chú trọng lý giải ý nghĩa thì cũng giống như chỉ cày ruộng mà không đi thu hoạch vậy, đã khai khẩn đất hoang mà không dùng thêm phân bón, đây là không có thói quen chăm chỉ, bền lòng, đều là do cố gắng không đủ.
Sau này, Doãn Đôn có chút thành tựu trong học tập, cũng muốn tham gia kỳ thi. Lần đó, đề mục kỳ thi liên quan đến việc giết hại các Nguyên Hựu chư thần. Năm Sùng Ninh đời Tống Huy Tông, đại gian thần Thái Kinh sau khi phong tướng, kéo bè kết đảng mưu lợi kiếm chác, bài xích những người bất đồng chính kiến như Tư Mã Quang, Tô Thức, Văn Ngạn Bác, v.v… 309 cái tên khắc trên bia đá, gọi là “Nguyên Hựu đảng tịch” bia. Đề mục kỳ thi nói về 309 người này. Doãn Đôn thấy rằng ý nghĩa đề tài này thật không tốt, vì thế khỏi cần viết bài, đi thẳng ra khỏi phòng thi.
Sau khi trở về nhà, Doãn Đôn đem việc này kể lại với mẹ. Bà nói: “Ta chỉ cần con dùng Thiện đức để hiếu thuận với ta, không cần con phải làm quan cao lộc lớn mà phụng dưỡng”.
Y Xuyên tiên sinh nghe được câu này của Trần Thị, bèn tán thưởng rằng: “Trần Thị quả là một người mẹ hiền đức!”.
Mặc dù Doãn Đôn cả đời không tham gia thêm cuộc thi nào nữa, nhưng vì uy tín, danh vọng cao dày, vào năm đầu Tĩnh Khang, ông lại được vua Tống Khâm Tông triệu tới kinh thành ban danh hiệu “Hòa Tĩnh xử sĩ”, sau này đảm nhiệm Lễ bộ Thị lang kiêm thị giảng.
* * *
Trong câu chuyện vừa rồi, người mẹ của Doãn Đôn đã nói một câu nổi tiếng: “Ta chỉ cần con dùng Thiện đức để hiếu thuận với ta, không cần con phải làm quan cao lộc lớn mà phụng dưỡng”. Câu nói này đã tiết lộ 3 tầng thứ khác nhau của Hiếu.
Hiếu ở tầng hạ: Cung phụng cha mẹ đầy đủ vật chất
Ở tầng thấp nhất, hiếu thuận phản ánh ở việc người con phụng dưỡng cha mẹ đủ đầy vật chất, săn sóc sức khỏe của cha mẹ. Để làm được chữ Hiếu cơ bản này, người con không nhất thiết phải làm quan cao lộc lớn, chỉ cần có thể làm việc chăm chỉ, cần cù tiết kiệm là đủ rồi.
Ví dụ như Tử Lộ – học trò của Khổng Tử nổi tiếng là người con đại hiếu. Thuở nhỏ, gia đình Tử Lộ rất nghèo khổ, quanh năm ăn lương thực thô như ngô, khoai với rau dại. Một hôm, cha mẹ cậu bé muốn ăn cơm, nhưng trong nhà không có hạt gạo nào, cũng chẳng có gì có thể đổi lấy gạo được. Suy nghĩ mãi, cuối cùng cậu bé quyết định đi bộ qua mấy quả núi đến nhà họ hàng hỏi vay ít gạo.
Cậu bé mới tí tuổi đầu đã một mình vượt rừng lội suối, qua mấy ngọn núi, đi bộ mấy chục dặm đường, mượn được một bao gạo nhỏ từ nhà người họ hàng rồi cõng về nhà. Nhìn thấy cha mẹ ăn cơm thơm phức ngon lành, cậu bé quên hết mệt nhọc. Xóm làng biết chuyện đều khen ngợi cậu bé hiếu thảo, lại dũng cảm.
Khổng Tử giảng: “Dụng Đạo của Trời, phân chia cái lợi của đất, cẩn thận bản thân, tiết kiệm tiêu dùng để phụng dưỡng cha mẹ, đó là cái hiếu của thứ dân”.
Điều này có nghĩa là những người dân thường, khi làm việc cần phải hợp với lẽ Trời. Giữ tròn bổn phận của mình, không được sinh lòng tham và làm những việc ngoài phận sự, không trộm cắp hay làm những việc phạm pháp. Phải cần kiệm giữ gìn nếp nhà, hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ, đây là chữ Hiếu của bậc thường dân.
Thế nhưng ngày nay lại xuất hiện quan niệm sai lầm, cho rằng để phụng dưỡng cha mẹ đầy đủ vật chất thì kiếm tiền bằng cách nào cũng được. Thế nên mới có những chuyện đau lòng như ăn cắp, ăn trộm để có tiền chữa bệnh cho cha mẹ; tham ô, tham nhũng để xây nhà cho cha mẹ, v.v… Cái tâm muốn phụng dưỡng cha mẹ là tốt, nhưng nếu vì vậy mà làm việc sai trái, thì chính là đang tạo nghiệp, vô tình khiến cha mẹ gánh tai vạ về sau.
Hiếu ở tầng trung: Cung kính dưỡng tâm cha mẹ
Chữ Hiếu ở tầng thấp nói trên còn một biểu hiện cực đoan, đó là có những người con chỉ biết kiếm thật nhiều tiền cho cha mẹ, mà không dành thời gian gần gũi, thăm nom, an ủi song thân. Vậy thì dù sống trong nhà cao cửa rộng, ăn sơn hào hải vị, cha mẹ cũng khó lòng hạnh phúc được.
Khổng Tử nói: “Ngày nay người ta coi hiếu là có thể nuôi cha mẹ, nhưng đến chó, ngựa kia, người ta cũng nuôi, nếu không kính cha mẹ thì có khác gì?”
Nên mới nói, chữ Hiếu ở tầng trung, đó là cung kính dưỡng tâm cha mẹ, để cha mẹ cảm thấy an lòng.
Một ví dụ điển hình là vua Tự Đức triều Nguyễn, ông là con thứ hai của vua Thiệu Trị với bà Phạm Thị Hằng, nổi tiếng với danh hiệu Thái hậu Từ Dũ, hay Từ Dụ. Sau khi nối nghiệp vương, Tự Đức đặt ra quy định ngày lẻ thiết triều, ngày chẵn vào vấn an mẫu thân. Như thế, mỗi tháng vua ngự triều mười lăm ngày, thăm mẹ mười lăm lần, chỉ trừ những lúc ốm đau. Trong sách Kể chuyện gương hiếu thảo của Nguyễn Phương Bảo An có viết, mỗi khi thăm mẹ, Tự Đức đều “cung kính, nén hơi, sửa mình, quỳ gối hỏi thăm sức khỏe mẹ, rồi cùng mẹ bàn luận kinh sách, và sử sách xưa nay”.
Bà Từ Dụ là người am hiểu sử sách, tích cổ, Tự Đức mỗi khi ở bên nghe mẹ giáo huấn đều ghi vào một cuốn sổ nhỏ gọi là “Từ huấn lục”. Khi mẹ muốn nghe đọc sách, ông đích thân đọc tới chừng nào mẹ bảo dừng mới thôi.
Có lần Tự Đức đi săn ở vườn Thuận Trực không may gặp trời mưa nên không về kịp giỗ vua cha Thiệu Trị. Thái hậu Từ Dụ ở nhà nóng ruột, sai người đi đón. Vua Tự Đức liền ngồi kiệu không có lọng che dù trời vẫn đang mưa tầm tã, đi thẳng vào cung lạy xin chịu tội. Thái hậu Từ Dụ ngồi quay mặt vào trong, không nói nửa lời. Vua thấy vậy, tự tay lấy roi mây dâng lên rồi nằm xuống xin chịu đòn.
Hiếu ở tầng thượng: Lập thân hành Đạo
Hai tấm gương hiếu thảo kể trên, Tử Lộ cõng gạo nuôi cha mẹ, và vua Tự Đức vấn an mẫu thân, mới chỉ minh hoạ cho chữ Hiếu ở tầng hạ và tầng trung. Vậy, chữ Hiếu ở tầng thượng là gì?
“Hiếu Kinh” thuật lại lời Khổng Tử nói với Tăng Tử: “Hiếu là cái gốc của đức, giáo hóa đức hạnh đều do Hiếu sinh ra. Con ngồi xuống, ta nói cho con nghe. Thân thể, da tóc, là nhận được từ cha mẹ, không được hủy hoại, là khởi đầu của Hiếu. Lập thân hành Đạo, lưu danh hậu thế, để rạng danh cha mẹ, là tận cùng của Hiếu. Đạo Hiếu, bắt đầu bằng phụng sự cha mẹ, tiếp đến là phụng sự quân vương, cuối cùng là lập thân”.
Theo lời dạy của Khổng Tử, tận cùng của Hiếu là lập thân hành Đạo, để lại tiếng thơm cho đời. Thế nào là “lập thân hành Đạo”? Không phải cứ quyền cao chức trọng, phát tài nổi danh, đã là “lập thân” rồi đâu. “Lập thân hành Đạo” trước hết là tu dưỡng bản thân, trở thành người có đạo đức, mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm đều thuận theo Đạo.
Vậy thế nào là “thuận theo Đạo”? Trong bài viết: “Nghìn năm văn hoá nhân loại: Tu luyện để thành nhân đâu phải chỉ để thành tiên” của tác giả Thuần Dương có đoạn:
“Người xưa giảng “Thiên Nhân hợp nhất”. Con người cũng là một thành phần nhỏ bé trong tự nhiên. Giữa Đất Trời rộng lớn, muốn sinh tồn và phát triển được thì con người phải hòa hợp với phần còn lại của vũ trụ, nhìn đạo của Đất Trời mà đồng hóa theo.
Đó là sự vô tư cống hiến không chút vị kỷ của muôn loài, như mặt trời chiếu sáng nuôi dưỡng các sinh mệnh, như chim mang hạt giống cây cối đi gieo trồng, như hoa dâng hương thơm ngát mà không cầu báo đáp. Đó cũng là sự từ bi chở che, nuôi dưỡng vạn vật như Đất, khiêm nhường cung kính luôn ở thế thấp và sẵn sàng đón nhận mọi vật như nước…
Những khái niệm Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín, Nghiệp – Đức, Giới luật ra đời để ước thúc con người thuận theo đạo vô tư, từ bi, chân thành, có tôn ti trật tự của Đất Trời…”
Người làm được thuận theo Đạo, thì dù không làm quan, không giàu có, dù chỉ là ẩn sĩ hàn vi nơi thâm sơn cùng cốc, cũng là bậc quân tử, hoặc Thánh nhân, chí thành chí hiếu.
Trong câu chuyện về Doãn Đôn ở đầu chương trình, mẹ của Doãn Đôn, bà Trần Thị là người phụ nữ hiền đức đã hiểu được đạo lý này, nên khi bà thấy con trai bỏ dở kỳ thi, lỡ dở công danh sự nghiệp thì không hề trách giận. Ngược lại, bà đánh giá cao hành động của con vì nó xuất phát từ đạo đức cao thượng của người quân tử, không nói và làm những điều trái Đạo. Câu nói: “Ta chỉ cần con dùng Thiện đức để hiếu thuận với ta, không cần con phải làm quan cao lộc lớn mà phụng dưỡng” đã phản ánh cảnh giới cao nhất của Hiếu mà người mẹ mong đợi ở con trai mình: đó là cảnh giới của Thiện.
Cảnh giới của Thiện
Nói về Thiện, có câu chuyện kể rằng:
Một ngày, các môn sinh đến gặp vị đạo sư và thỉnh ngài giảng về thiện và ác, đạo sư bèn yêu cầu mỗi người hãy đưa ra ví dụ về những việc thiện-ác mà họ biết.
Một người trong đó nói, mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính lễ phép với người là thiện. Vị đạo sư nói rằng, không nhất định là như vậy.
Một người khác cho là tham lam lấy tài vật của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Vị đạo sư cũng đáp rằng, không nhất định là như vậy.
Mọi người đều lần lượt đưa ra các ví dụ khác nhau về thiện và ác, nhưng vị đạo sư đều lắc đầu rằng, không nhất định là như vậy.
Thấy khó hiểu, các môn sinh bèn thỉnh đạo sư hãy giảng giải cho mình.
Lúc này vị đạo sư mới từ tốn nói: “Giúp ích cho người gọi là Thiện, chỉ vì ích kỷ lợi thân gọi là Ác”.
Vì giúp ích cho người nên dù có đánh mắng cũng vẫn là thiện, trái lại chỉ vì ích lợi cho bản thân nên dù có lễ phép với người cũng gọi là ác.
Lại nữa, làm việc thiện mà xuất phát từ tấm lòng thành là “chân thiện”, còn hời hợt chiếu lệ mà làm là “giả thiện”. Ví như, nếu tâm không thiện thì dù có vung tiền của cứu giúp hàng ngàn người cũng không có nghĩa lý gì; ngược lại, tâm chân thiện, thì dù không có một đồng làm từ thiện, nhưng một nụ cười hay một cái nắm tay chân thành cũng đủ để tích phúc đức rồi.
Cũng nói, làm việc thiện rồi cầu được báo đáp thì là vị tư bất thiện. Chỉ có làm việc thiện một cách lặng lẽ âm thầm, không phô trương, không cầu báo đáp, mới thật sự tích được âm đức. Người tích được âm đức thì cha mẹ của họ cũng vì thế mà đắc thiện quả, ấy mới là người con chí hiếu vậy.
Lời kết
Thông qua những câu chuyện ngày hôm nay, chúng ta có thể thấy được 3 tầng thứ khác nhau của Hiếu. Hiếu ở tầng hạ là phụng dưỡng cha mẹ đầy đủ vật chất. Hiếu ở tầng trung là cung kính dưỡng tâm cha mẹ. Và Hiếu ở tầng thượng là lập thân hành Đạo, tu thành bậc Chân Thiện.
Tuy phân thành 3 tầng thượng, trung, hạ, nhưng nếu ngay cả chữ Hiếu cơ bản nhất là phụng dưỡng cha mẹ cơm ăn nước uống mà cũng làm không nổi, thì e rằng nói đến lập thân hành Đạo cũng chỉ là danh hão mà thôi.
Bản thân người viết thấy rằng, cả 3 tầng thứ này của Hiếu mình đều đang cố gắng làm được chút ít, nhưng chưa có tầng nào là làm tốt cả. Con đường học tập, thực hành hiếu đạo này, còn phải nỗ lực rất nhiều.
Cuối cùng, xin gửi tặng quý vị một bài thơ trong “Minh Đạo Gia Huấn”:
Đạo phụng dưỡng phải lễ nghi
Chớ hiềm ô uế chớ vì bẩn hôi
Mẹ cha còn ở trên đời
Làm con chớ có chơi bời đi xa
Là thân thể là tóc da
Đều của từ mẹ từ cha cho mình
Chăm nom gìn giữ dáng hình
Cái gốc của hiếu từ mình chứ đâu
Lập thân hành đạo là sau
Tiếng nêu đời trước truyền sau rỡ ràng
Mẹ cha nhờ tiếng mà sang
Là ngọn của hiếu hai đàng đều cân.
Thuỳ Linh – Nhân sinh mạn đàm