Chào mừng quý vị đến với Chuyên mục Văn hóa của Đại Kỷ Nguyên.

Giang hồ Nam Bộ ngày xưa được ca ngợi có gì đó phảng phất phong cách của các anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử. Tuy nhiên, theo thời gian, chất Lương Sơn Bạc đó dần dần bị mai một.

Ngày nay, nói đến dân giang hồ, người ta nghĩ ngay đến những băng đảng lưu manh xã hội đen, nhưng nguyên nghĩa ban đầu của “giang hồ” lại không phải như vậy.

Theo những tài liệu nghiên cứu về văn hóa Trung Hoa, từ “giang hồ” xuất hiện từ rất sớm. Trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc từ “giang hồ” đã xuất hiện trong các ghi chép của Tả Truyện và Mạnh Tử. Trong đó, “giang (江) hồ (湖)” được hiểu là những vùng sông nước xa xôi.

Trong những văn bản từ thời Xuân Thu, “giang hồ” thường được sử dụng như một hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống tự do, không ràng buộc với triều đình.

Thời Xuân Thu – Chiến Quốc là giai đoạn mà nhiều học giả như Khổng Tử, Mạnh Tử lựa chọn chu du thiên hạ để truyền bá tư tưởng, thường xuyên đến các vùng xa trung tâm quyền lực. Những nơi này cũng được coi là “giang hồ”.

Các bài thơ và luận văn của các nhà nho từ thời Xuân Thu đến Đường – Tống, như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lục Du, cũng đề cập đến hình tượng “giang hồ” là những vùng đất xa xôi, rộng lớn, hoang vắng, là điểm đến cho những ước mơ vượt thoát khỏi cõi hồng trần ngột ngạt.

Lý Bạch, nhà thơ nổi tiếng thời Đường, thường được gọi là “thi tiên,” được coi là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất đến khái niệm giang hồ trong văn học Trung Quốc. Trong thơ ông, “giang hồ” xuất hiện với nghĩa đậm chất phiêu lãng, tự do và thoát ly trần thế.

Trong bài thơ “Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt hiệu thư thúc Vân”, nghĩa là “Tiễn biệt hiệu thư thúc Vân trên lầu Tạ Diễu ở Tuyên Châu” của Lý Bạch có đoạn:

Trừu đao đoạn thủy thủy cánh lưu,
Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu.
Nhân sinh tại thế bất xứng ý,
Minh triêu tán phát lộng biên chu
.

Dịch là:
Rút đao chém nước, càng chảy xiết,
Nâng chén tiêu sầu, sầu thêm sầu.
Nhân sinh tại thế không như ý,
Sớm mai buông tóc mặc thuyền xuôi.

Bài thơ là lời chia sẻ nỗi bi thống về nhân sinh ngang trái và sự đồng cảm của Lý Bạch với hiệu thư lang thúc Vân khi ông quyết định từ quan. Câu thơ “Nhân sinh tại thế không như ý, sớm mai buông tóc mặc thuyền xuôi” cho thấy ông thấu hiểu nỗi đau của thúc Vân khi phải từ bỏ sự nghiệp và hoài bão tế thế để tránh xa những thị phi cạm bẫy chốn quan trường, trở về với một cuộc sống phiêu du tự do tự tại ngoài thế tục. 

Đỗ Phủ, nhà thơ hiện thực vĩ đại thời Đường, cũng có những câu thơ làm người đọc liên tưởng tới “giang hồ.” Tuy nhiên, trong thơ của Đỗ Phủ “giang hồ” khoác lên mình điều gì đó u buồn hơn. Ông thường dùng “giang hồ” để ám chỉ sự lưu lạc, khổ cực trong cảnh loạn lạc thời kỳ An Sử.

Dưới đây là tuyệt phẩm thơ “Đăng cao” của Đỗ Phủ:

Đăng cao
Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,
Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu thường tác khách,
Bách niên đa bệnh độc đăng đài.
Gian nan khổ hận phồn sương mấn,
Lao đảo tân đình trọc tửu bôi.

Dịch là:
Gió lộng, trời cao, vượn khóc ai,
Bến trong, cát trắng, điểu vãng lai,
Vô biên lá vàng rơi lặng lẽ,
Bất tận Trường Giang sóng xô hoài.
Muôn dặm thu buồn người tê tái,
Một đời đa bệnh biết thương ai,
Gian nan khổ hận pha sương tóc,
Lảo đảo sân đình chén rượu vơi
.

Dù không nói trực tiếp tới “giang hồ,” hình ảnh trong hai câu thơ của Đỗ Phủ gợi ý về cuộc đời tác giả phiêu bạt trong cảnh loạn lạc, một dạng “giang hồ” bất đắc dĩ.

Tác phẩm “Tam Quốc Diễn Nghĩa” của La Quán Trung ám chỉ “Giang hồ” không chỉ là nơi nương náu của những anh hùng thất thế, mà còn là môi trường ươm mầm các nhân vật tài giỏi, như Quan Vũ, Trương Phi.

Trong một đoạn đối thoại, Lưu Bị từng nói với Quan Vũ và Trương Phi khi ba người đang phiêu bạt: “Dù chúng ta chỉ là thường dân áo vải, nhưng chí hướng lại ở giang hồ, không cam chịu dưới kẻ khác.”

Khi bàn về anh hùng, Tào Tháo từng nói: “Những hào kiệt giang hồ nhất định sẽ tranh bá thiên hạ.”

Trong Thủy Hử của Thi Nại Am, từ “giang hồ” được nhắc đến trực tiếp với tần suất cao, mang ý nghĩa rất rõ ràng và đặc trưng. Khái niệm “giang hồ” trong Thủy Hử mang hai tầng ý nghĩa chính:

Về nghĩa đen: “Giang hồ” chỉ các vùng sông nước hoặc những nơi xa cách trung tâm quyền lực, đặc biệt là vùng Lương Sơn Bạc, nơi tập trung các anh hùng hảo hán. “Giang hồ” ở đây tượng trưng cho không gian tự do ngoài vòng pháp luật, nơi không bị ràng buộc bởi triều đình hoặc quy tắc xã hội.

Về nghĩa bóng: “Giang hồ” trong Thủy Hử ám chỉ một thế giới ngầm, nơi hội tụ các nhân vật sống ngoài vòng pháp luật như hảo hán, kiếm sĩ, thương nhân phiêu bạt, hoặc những người bị xã hội ruồng bỏ. Đây cũng là nơi diễn ra các mối quan hệ giao thiệp giữa những người có chung chí hướng hoặc cần giúp đỡ lẫn nhau.

Trong chương đầu của Thủy Hử, khi kể về sự hình thành của nhóm hảo hán Lương Sơn Bạc, nhà văn Thi Nại Am viết: “Những người trong giang hồ có nghĩa khí đều tụ hội ở Lương Sơn Bạc.”

Ở một đoạn khác trong Thủy Hử, anh hùng Lý Quỳ nói với anh em: “Chúng ta sống trong giang hồ, điều quan trọng nhất chính là tình nghĩa huynh đệ.”

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, “giang hồ” được nhắc đến trong câu thơ mô tả Từ Hải: “Giang hồ quen thói vẫy vùng”, với ý rằng Từ Hải là người yêu thích cuộc sống tự do, đầy khí phách, không chịu khuất phục cường quyền.

Về sau này, trong các tác phẩm võ hiệp như của nhà văn Kim Dung, nghĩa của danh từ “giang hồ” dường như bị giới hạn lại khi khiến người đọc hiểu rằng nó ám chỉ thế giới của riêng những người có võ nghệ, sống lang bạt nay đây mai đó, hình thành một xã hội có sự phức tạp riêng, nhiều ân oán và lắm thị phi. Xã hội thu nhỏ này có luật lệ riêng, nhưng cũng dựa trên nền tảng tôn trọng sự thật, tôn vinh lòng khoan dung, nhân ái và nhẫn nại. Những cuộc tranh hùng giữa những cá nhân hay phe nhóm cũng thể hiện rõ nét sự đối lập giữa chính tà, thiện ác.

Dần dà theo thời gian, người ta bắt đầu hiểu “giang hồ” từ nghĩa ban đầu là chỉ không gian, sang chỉ con người. Khi nhắc tới hai từ “giang hồ”, người ta sẽ không nghĩ tới sông hồ hay các vùng đất rộng lớn, xa xôi nữa, mà nghĩ tới những người như kiểu 108 vị anh hùng ở Lương Sơn Bạc, hay những hiệp khách trong các tác phẩm của Kim Dung. Đó là những người vì hành hiệp trượng nghĩa hay bị bức bách mà vi phạm pháp luật, hoặc đó là những người yêu thích cuộc sống xê dịch, tự do, có tâm hồn phóng khoáng, cởi mở, trọng nghĩa khí, danh dự, coi thường tiền tài, danh vọng, luôn bảo vệ, che chở kẻ yếu, không e sợ cường quyền, dám dấn thân, chấp nhận phần rủi ro về mình để bảo vệ chính nghĩa.

Mời quý vị xem tiếp tại:

Tác giả: Lục Du
Dịch thơ: Hương Thảo