Tôi xa quê cũng đã lâu rồi, những đổi thay của quê hương tôi không được tỏ tường cho lắm. Ví như chiếc xe đạp thồ, chúng có còn xuất hiện trên đường làng hay không?
Có lẽ là “không”. Bởi thời nay, ô-tô, xe máy chở được nhiều hàng hoá hơn, thuận tiện hơn trước nhiều, do đó mà những chiếc xe thồ đơn sơ đã trở thành dĩ vãng. Một điều nữa là dân Bách Thuận quê tôi bây giờ giàu có lắm, biệt thự lộng lẫy mọc lên san sát; người ta đi chợ hay đi bán rau đều sử dụng xe Cup thì chuyện những chiếc xe thồ chỉ còn là hoài niệm của một thời, thậm chí lớp trẻ ngày nay chưa chắc đã biết nhiều về nó. Bởi vậy tôi xin được viết lại để ai đó biết rõ về loại phương tiện này, hoặc giúp những người đã làm nghề nhớ về kỷ niệm của một thời đã qua.
Trở lại thập niên 60-70 của thế kỷ trước, thời đất nước còn chiến tranh, bao cấp, quê tôi làm nông nghiệp nhưng chỉ trồng dâu nuôi tằm chứ không cấy lúa. Thế nên dân quê tôi được hưởng chế độ như công nhân, được cấp phiếu vải và mua lương thực từ nhà nước. Tuỳ theo đối tượng hay thời điểm mà mức tiêu chuẩn thường xê dịch từ 13 kg đến 21 kg cho mỗi người trong tháng. Thời đó đất nước còn nghèo lắm, làm gì có ô-tô để chuyên chở lương thực cho hàng vạn con người? Thế nên công việc đó dành cho những người làm nghề xe thồ đảm nhận. Ai đó đã từng xem phim về Điện Biên, thấy cảnh từng đoàn xe thồ hàng hoá và vũ khí phục vụ cho chiến dịch thì có thể hình dung rằng quê tôi năm xưa cũng vậy. Tôi đã từng tận mắt nhìn thấy đoàn xe thồ Bách Thuận chở gạo trên đường 10 thời ấy, đẹp và hoành tráng không kém trong phim ảnh. Cả một đoàn xe dài nối tiếp nhau, chậm rãi di chuyển như đàn kiến cần mẫn tha mồi mà đến giờ, đã qua gần nửa thế kỷ, hình ảnh đó vẫn in trong tâm trí của tôi.
Vậy xe thồ có hình dáng như thế nào nhỉ? Trước hết, tôi xin tả lại về phương tiện này. Điều cần đầu tiên là một chiếc xe đạp nam với bộ khung khoẻ và chắc chắn cùng một cái đèo hàng thửa bằng thép to đùng. Các phụ kiện khác như chắn xích, chắn bùn, đèn, phanh đều được tháo bỏ khiến chiếc xe trở nên đơn giản như một người không mặc quần áo. Bộ săm lốp xe cũng là một vấn đề, chúng được làm đầy đặn, bền và chắc hơn bình thường để chịu được tải trọng hàng hoá. Tiếp theo là bộ bàn thồ, người ta dùng hai cái sạp gỗ nhỏ được treo vào đèo hàng và khung xe, thêm một chiếc ghế đặc chủng có ba chân để định vị xe lúc xếp hàng hoặc nghỉ ngơi. Cuối cùng người ta dùng hai đoạn tre đực già to vừa tầm tay, một được buộc vào ghi-đông dùng để lái, cái còn lại buộc dọc khung sau yên xe dùng để đẩy xe đi. Toàn bộ hình dáng chiếc xe thồ là như vậy.
Những người thợ xe thồ là những người đàn ông, ngoài đức tính chăm chỉ chịu khó, họ còn phải có sức khoẻ dẻo dai nữa. Nghề xe thồ nặng nhọc vất vả, ngày tháng dầm mình trong gió bụi nắng mưa, làm việc bất kể sớm tối. Hình ảnh của họ là một người đàn ông với nước da sạm nắng, quần áo giản đơn, đầu đội mũ lá, chân mang đôi dép cao su. Đôi dép này họ còn sử dụng để phanh xe khi di chuyển, chỉ cần đưa chân ấn vào lốp trước là xong, tốt như phanh xe hiện đại. Những phương tiện giản đơn như bản tính của người dân thôn quê, những người lái chiếc “tắc-xi tải” ngày ấy chẳng ngại công việc, không nề hà nắng mưa, chuyên chở tất cả những gì có thể để phục vụ cuộc sống một vùng quê.
Thời ấu thơ, mỗi khi hiếm hoi có một cái ô-tô về làng là lũ trẻ con chúng tôi lại chạy theo reo hò, rồi ngắm nghía với ánh mắt tò mò ngạc nhiên. Tôi lại nghĩ lớp trẻ thời nay cũng có thể nhìn chiếc xe thồ như vậy. Tôi chỉ mong những ánh mắt đó không coi thường hình ảnh của quá khứ, hoặc tò mò như nhìn thấy vật gì đó trong phim kinh dị. Tôi luôn luôn mong muốn họ hiểu rằng, cùng với sức lực và mồ hôi, những phương tiện đó đã giúp các cụ, các ông của họ xây dựng nên mảnh đất này và tạo dựng cho họ cuộc sống sung túc ngày hôm nay.
Nguyễn Như Thạnh
Tiểu mục Văn thơ là bức ký họa thơ ca, tản văn, âm nhạc mà chuyên mục Văn hóa Thời báo Đại Kỷ Nguyên muốn dành tặng cho độc giả, để tìm về với nơi thuần khiết sâu thẳm nhất của chính mình, như một nốt lặng trầm quý giá trong bản nhạc cuộc sống thường nhật ồn ào, sôi động.
Xem thêm: