Người Trung Quốc đều biết về tuyến xe lửa quốc tế K3/K4, nối liền Bắc Kinh, qua Ulan Bator, và cuối cùng đến Mát-xcơ-va. Trên những toa tàu màu xanh lá cây đó, với tấm biển hiệu quen thuộc, là ký ức của hàng triệu “đảo gia” – những thương nhân Trung Quốc đã làm nên cả một huyền thoại trong những năm tháng hỗn loạn sau khi Liên Xô sụp đổ.
Tháng 12 năm 1991, Liên bang Xô viết, một siêu cường từng có thể sản xuất hoả tiễn như làm xúc xích, bỗng chốc tan rã. Một quốc gia khổng lồ rơi vào tình trạng thiếu thốn cùng cực, ngay cả những vật dụng đơn giản nhất như phích nước hay tất chân cũng không có đủ. Thông tin này ngay lập tức lọt vào tai những thương nhân Trung Quốc nhạy bén. Thời điểm đó, một khẩu hiệu được lan truyền khắp nơi: “Chỉ cần sang Nga một chuyến, một tuần có thể kiếm được một chiếc Mercedes”. Sức hấp dẫn này là không thể cưỡng lại.
Những “đảo gia” nhanh chóng nâng cấp thành “đảo gia quốc tế”, ồ ạt chuyển hướng sang thị trường Nga. Họ thu gom hàng hóa đang khan hiếm ở Nga nhưng lại rất sẵn có ở Trung Quốc như đồ hộp, áo khoác, giày da, áo lông vũ. Họ chất đầy hàng lên những toa tàu, vận chuyển đến Mát-xcơ-va để bán. Mỗi chuyến đi như vậy, một “đảo gia” có thể thu về tới 10.000 Nhân dân tệ, trong khi mức lương trung bình của người dân lúc đó chỉ khoảng 100 Nhân dân tệ. Chỉ sau một chuyến tàu, họ đã trở thành những “vạn nguyên hộ” – những người có tài sản vạn tệ, một danh xưng vô cùng đáng ngưỡng mộ thời bấy giờ.
ĐÂY LÀ MỘT THỜI KỲ VÀNG SON, MỘT CƠN SỐT LÀM GIÀU CHƯA TỪNG CÓ
Vào thời kỳ đỉnh cao, khu chợ ngoại thương nổi tiếng nhất Mát-xcơ-va, chợ Izmailovo, quy tụ hơn 100.000 “đảo gia” Trung Quốc. Những người này, hoạt động trong lĩnh vực buôn bán quần áo dọc biên giới Trung-Nga, có thể kiếm được hàng chục, thậm chí hàng trăm vạn Nhân dân tệ mỗi ngày. Nhưng đi kèm với sự giàu có là những rủi ro chết người. Mafia Nga, vốn khét tiếng tàn bạo, đã sớm nhắm vào những người Trung Quốc này. Họ có nhiều tiền mặt, không biết tiếng Nga, lại hoạt động trong vùng xám của luật pháp – họ chính là những đối tượng cướp bóc hoàn hảo nhất.
Các “đảo gia” Trung Quốc cũng có cách đối phó của riêng mình. Nguyên tắc của họ là tiền mặt không bao giờ được để qua đêm. Sau khi quyết toán, quầy hàng không bao giờ được để lại tiền. Với số tiền kiếm được, họ sống một cuộc sống xa hoa. Nước Nga lúc đó rất nghèo, nhưng các “đảo gia” thì ngày nào cũng ăn hải sản trị giá hàng ngàn rúp, uống rượu trị giá 50 rúp, thậm chí còn đủ tiền để bao nuôi những cô gái Nga trẻ đẹp. Lối sống này đã trở thành tất cả đối với họ.
Tại Bắc Kinh, có một khu vực gọi là “Thành phố Nga” ở phố Nhã Bảo Lộ (Yabaolu). Vài năm trước, nơi đây có một tấm biển hiệu rất đặc trưng. Một mặt ghi bằng tiếng Trung: “Miễn vào”. Mặt kia ghi bằng tiếng Nga: “Chào mừng quý khách”. Đây là một khu chợ chuyên phục vụ người Nga. Nó được hình thành như thế nào?
Ở Bắc Kinh có khu sứ quán đầu tiên, nơi tập trung các đại sứ quán của những quốc gia xã hội chủ nghĩa mà Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao sớm nhất. Hoạt động kinh doanh với người Nga ban đầu nảy sinh ngay trong khách sạn Nhật Đàn ở vành đai 2 phía Đông. Mỗi phòng khách sạn là một gian hàng, một cửa hiệu, chất đầy hàng hóa để người Nga tiện xem. Dần dần, khách sạn nhỏ bé này biến thành một khu chợ. Chính quyền thành phố Bắc Kinh thấy vậy không ổn, một khách sạn là nơi để ở chứ không phải để buôn bán, nên đã cho xây dựng một khu chợ ngoài trời trên phố Nhã Bảo Lộ.
Tuy nhiên, những thói quen xấu của người Trung Quốc và sự thiếu giám sát của thị trường đã biến nơi đây thành một thiên đường của hàng giả. Nhiều “đảo gia” túi tiền rủng rỉnh vẫn thường phàn nàn: “Không thể hiểu nổi, chúng tôi giàu như vậy, tại sao mấy lão Nga vẫn cứ kỳ thị người Trung Quốc chúng tôi?”.
Sự thật là, Nga hiện là một trong những quốc gia có thái độ bài Hoa nghiêm trọng nhất trên thế giới. Bên cạnh chủ nghĩa sô-vanh đại quốc từ thời Sa hoàng, còn có sự bá đạo từ thời Liên Xô với khẩu hiệu “người cộng sản không có biên giới”. Sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thành lập chính quyền vào năm 1949, sau một thời kỳ trăng mật ngắn ngủi với Liên Xô, mối quan hệ giữa hai nước nhanh chóng rạn nứt, thậm chí bước vào trạng thái chiến tranh. Chúng ta sẽ bắt đầu từ giai đoạn lịch sử đặc biệt đó để hiểu rõ hơn về mối quan hệ Trung-Nga.
TỪ ANH EM ĐẾN KẺ THÙ: SỰ RẠN NỨT CỦA KHỐI CỘNG SẢN
“Anh cả Liên Xô” – đó từng là một cách gọi thân thương và quen thuộc nhất đối với người Trung Quốc. Hệ tư tưởng của hai quốc gia từng có lúc tưởng như không thể phá vỡ. Nhưng mọi thứ đã thay đổi khi Khrushchev lên nắm quyền và bắt đầu thanh trừng chủ nghĩa Stalin. Ông ta cũng chỉ trích Mao Trạch Đông, nói rằng chính sách công xã nhân dân và Đại nhảy vọt của Trung Quốc sẽ không thành công. Khrushchev nói: “Những gì các đồng chí Trung Quốc đang làm, Liên Xô đã thử nghiệm từ những năm 20 và đã chứng minh là không hiệu quả”.
Lời phê bình này đã chạm vào lòng tự ái của Mao Trạch Đông. Sự chia rẽ giữa hai đảng bắt đầu nảy sinh từ đó. Đến thời Brezhnev, Mát-xcơ-va còn bộc lộ ý định muốn giới lãnh đạo cấp cao của ĐCSTQ lật đổ Mao Trạch Đông. Điều này khiến Mao quyết định cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Đảng Cộng sản Liên Xô. Ông ta chuyển trọng tâm của cuộc đấu tranh giai cấp trong nước từ việc “chống diễn biến hòa bình” của Hoa Kỳ sang “ngăn chặn sự phục hồi của những nhân vật kiểu Khrushchev ở Trung Quốc”. Dựa trên nền tảng lý luận này, ông ta đã phát động cuộc Cách mạng Văn hóa để “bắt những tên Khrushchev đang ngủ ngay bên cạnh mình”. Lưu Thiếu Kỳ đã bị bắt giữ chính vì lý do này.
Chính trong bối cảnh căng thẳng đó, “Sự kiện đảo Trân Bảo” đã nổ ra. Cho đến ngày nay, nhiều người Trung Quốc vẫn giữ một ấn tượng rằng các quân nhân Trung Quốc đã anh dũng, kiên cường, dùng thân mình để chặn đứng xe tăng của Liên Xô. Nhưng trên thực tế, việc phát động chiến tranh ở biên giới Trung-Xô là một quyết sách của Mao Trạch Đông. Đây là quyết định chiến tranh mạo hiểm thứ hai của Mao kể từ khi thành lập chính quyền, chỉ sau quyết định đưa quân vào Triều Tiên.
Hành động này không chỉ biến quốc gia láng giềng, một trong hai bá chủ thế giới lúc bấy giờ, thành một kẻ thù trong tình trạng chiến tranh, mà còn suýt nữa khiến Trung Quốc phải hứng chịu một cuộc tấn công hạt nhân từ Liên Xô.
Trên sông Ô Tô Lý (Ussuri), biên giới tự nhiên giữa hai nước, có một hòn đảo nhỏ được hình thành từ phù sa bồi đắp. Cả Trung Quốc và Liên Xô đều tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo này. Những cuộc xung đột ban đầu không quá dữ dội, chủ yếu là dùng tay không và gậy gộc. Người Liên Xô có thể hình to lớn hơn, nên ban đầu, người Trung Quốc chịu khá nhiều thiệt thòi.
Sau đó, Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương, Trần Tích Liên, đã điều động các trinh sát viên từ các quân đoàn dã chiến trong khu vực. Những trinh sát viên thời đó không được huấn luyện bài bản như lực lượng đặc nhiệm sau này, nhiều người trong số họ đã biết võ thuật từ trước khi nhập ngũ. Khi quân đội Xô Viết xông lên, phía Trung Quốc đã dùng đến cả “Thiếu Lâm Thiết đầu công”. Quân đội Xô Viết bắt đầu thất thế trong các cuộc đối đầu tay không. Họ nhận ra: “Ồ, đối thủ này biết cả công phu Trung Quốc”. Thế là họ điều động các đô vật Nga, phối hợp với xe bọc thép để tấn công. Quân đội Trung Quốc lại một lần nữa chịu thiệt.
Trong tình hình đó, Quân khu Thẩm Dương đã báo cáo lên trung ương xin phê duyệt, chuẩn bị sử dụng vũ lực để đáp trả. Địa điểm được chọn là đảo Trân Bảo. Tại sao? Vì hòn đảo này nằm ở phía Trung Quốc của luồng chính trên sông Ô Tô Lý, nên nếu chiến sự nổ ra, sẽ dễ dàng cho thấy quân đội Xô Viết là bên xâm lược. Kế hoạch được báo cáo lên trung ương và Mao Trạch Đông, và đã được phê duyệt. Tư lệnh Trần Tích Liên đã hạ đạt kế hoạch tác chiến xuống các đơn vị, truyền đạt rằng đây là chỉ thị của “lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch và Lâm Phó thống soái”.
TRÂN BẢO: HÒN ĐẢO NHUỐM MÁU VÀ CUỘC SĂN LÙNG CHIẾC T-62
Ngày 2 tháng 3 năm 1969, trận chiến nổ ra. Mục tiêu đầu tiên là tiêu diệt một sĩ quan Liên Xô có biệt danh là “Thượng úy què”. Tên thật của ông ta là Ivan Strelnikov. Trước đó, Ivan đã bị một trinh sát viên Trung Quốc đánh bị thương ở chân. Sau đó, Liên Xô coi ông ta như một người hùng. Sau khi bình phục và ra viện, ông ta được thăng chức và quay trở lại, đối xử với các chiến sĩ biên phòng Trung Quốc một cách tàn bạo hơn. Vì vậy, các quân nhân Trung Quốc rất căm ghét ông ta và đặt cho ông ta biệt danh đó.
“Thượng úy què” trở thành mục tiêu tấn công đầu tiên. Phía Trung Quốc đã huy động ba đại đội để phục kích ông ta và 20 thuộc hạ. Toàn bộ đội tuần tra của Liên Xô đã bị tiêu diệt. Ngay sau đó, hàng trăm ngàn người dân ở Bắc Kinh đã tập trung trước Đại sứ quán Liên Xô để biểu tình, tuần hành, phản đối hành động xâm lược của Liên Xô.
Tiếp đó, vào ngày 15 tháng 3, một trận chiến khác lại xảy ra. Lần này, quân đội Xô Viết đến để trả thù, họ đưa đến ba chiếc xe tăng T-62 hiện đại nhất lúc bấy giờ. Phía Trung Quốc đã có sự chuẩn bị từ trước, với một trung đoàn tăng cường, cùng hàng trăm khẩu pháo và vũ khí chống tăng. Hỏa lực trút xuống như mưa đá, nhưng không thể phá hủy được xe tăng của Liên Xô.
Cuối cùng, một quả mìn chống tăng đã phát nổ, làm đứt xích của một chiếc xe tăng. Và rồi, trong một sự trùng hợp gần như là vạn bất đắc dĩ, một quả hoả tiễn đã xuyên qua khoảng hở chỉ rộng chừng 20cm giữa xích xe và tấm chắn bùn – nơi không có lớp giáp dày – và lọt vào bên trong.
Thông tin vũ khí chống tăng của Trung Quốc tỏ ra vô hiệu trước xe tăng Liên Xô đã được truyền đến Quân ủy Trung ương, gây chấn động giới lãnh đạo cấp cao. Mao Trạch Đông, Lâm Bưu và Chu Ân Lai đều ra chỉ thị, bằng mọi giá phải thu hồi được chiếc xe tăng này. Giới lãnh đạo cấp cao của Liên Xô cũng hạ lệnh, tuyệt đối không để Trung Quốc có được chiếc xe tăng đó.
Vì vậy, trận chiến diễn ra hai ngày sau đó thực chất là cuộc tranh giành chiếc xe tăng T-62 này. Quân đội Xô Viết sau đó đã dùng pháo hạng nặng bắn phá, làm vỡ lớp băng trên sông, khiến chiếc xe tăng chìm xuống đáy. Nhưng phía Trung Quốc vẫn không từ bỏ. Họ đã điều động các thợ lặn của Hạm đội Bắc Hải và cuối cùng đã trục vớt được chiếc xe tăng. Hiện nay, nó đang được trưng bày tại Bảo tàng Quân sự ở Bắc Kinh. Nếu quý vị đến tham quan, hãy nhìn vào tấm chắn bùn ở phía trước bên phải của nó, quý vị sẽ thấy một vòng tròn được sơn màu trắng. Cái lỗ trong vòng tròn đó chính là nơi quả hoả tiễn đã xuyên qua năm xưa.
Sau khi nghiên cứu chiếc xe tăng, quân đội ĐCSTQ đã vô cùng kinh ngạc. Xe tăng Liên Xô có hệ thống ổn định kép, nghĩa là nó có thể bắn trong khi đang di chuyển. Xe tăng của Trung Quốc khi bắn phải dừng lại, chẳng khác nào một mục tiêu sống. Hơn nữa, lớp giáp của T-62 cực kỳ chắc chắn. Tất cả các loại vũ khí chống tăng của quân đội ĐCSTQ thời đó đều không thể xuyên thủng. Vì tất cả vũ khí chống tăng đều không hiệu quả, nên trước khi có vũ khí mới, quân đội đã phải ngày đêm huấn luyện binh sĩ dùng thuốc nổ để phá xe tăng. Điều này có nghĩa là gì? Là biến những quân nhân Trung Quốc thành những quả bom người.
BÊN BỜ VỰC CHIẾN TRANH HẠT NHÂN
Thời điểm đó, giữa Trung-Xô có một đường dây nóng cao cấp. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, Kosygin, cần phải làm rõ liệu cuộc xung đột biên giới quy mô lớn này có leo thang thành chiến tranh hay không. Ông đã gọi điện thoại. Thời đó chưa có tổng đài tự động, tất cả đều phải thông qua tổng đài viên trực tay. Trước mặt cô tổng đài viên là hàng trăm chiếc đèn nhỏ. Khi có cuộc gọi đến, đèn tương ứng sẽ sáng lên. Trên chiếc đèn nhỏ đang sáng đó có dán hai chữ “Tô tu”.
Cô tổng đài viên thấy đèn sáng, vô cùng ngạc nhiên. Khi nhấc máy lên, cô nghe phiên dịch viên của đại sứ quán nói: “Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, Kosygin, muốn gặp Mao Trạch Đông”. Cô tổng đài viên nói: “Mao Chủ tịch không rảnh”, rồi cúp máy.
Điện thoại lại reo. Tình hình chiến sự căng thẳng, cuộc gọi lại đến. Lần thứ tư, sau khi đã suy nghĩ kỹ, cô tổng đài viên nhấc máy và hét lớn vào ống nghe: “Nói cho ông biết, Mao Chủ tịch của chúng tôi kiên quyết không nói chuyện với tên xấu xa theo chủ nghĩa xét lại Liên Xô Kosygin”. Rồi lại cúp máy.
Đó là đường dây nóng của các nhà lãnh đạo cao nhất. Thôi được, không muốn nói chuyện thì đánh. Ngày 29 tháng 3 năm 1969, ngày này trong lịch sử, Liên Xô chính thức thông báo với phía Trung Quốc rằng có thể đàm phán, nhưng phải truy cứu trách nhiệm xâm lược của Trung Quốc, nếu không sẽ khai chiến.
Hành động của cô tổng đài viên thực chất lại phản ánh đúng thái độ của giới lãnh đạo cấp cao ĐCSTQ. Ai dám nói chuyện với Liên Xô? Ngoài Mao Trạch Đông ra, không ai dám nhận cuộc gọi đó. Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ đã bị đánh đổ với cái mác “Khrushchev của Trung Quốc”. Ai dám lên tiếng, người đó chẳng phải sẽ bị coi là theo chủ nghĩa xét lại hay sao?
Vậy thì, chuẩn bị chiến tranh thôi. Để trả đũa, quân đội Xô Viết đã cử một đơn vị xe tăng ở khu vực Tân Cương tiêu diệt một đội biên phòng của ĐCSTQ. Tư lệnh Quân khu Tân Cương, Long Thư Kim, đã nhận được chỉ thị từ Bắc Kinh rằng vũ khí chống tăng của họ không thể xuyên thủng xe tăng Liên Xô. Nỗi sợ hãi xe tăng Liên Xô lan rộng, không ai dám cử quân tiếp viện, vì cử bao nhiêu cũng chỉ là bia đỡ đạn.
Trong phút chốc, biên giới Trung-Xô mây đen bao phủ, một cuộc chiến tranh quy mô lớn sắp nổ ra. Niềm vui chiến thắng ban đầu đã tan biến. Trước sự kiện đảo Trân Bảo, Liên Xô chỉ có 15 sư đoàn không đủ quân số ở biên giới. Sau tiếng pháo ở Trân Bảo, Liên Xô đã tăng quân lên hơn 40 sư đoàn, được trang bị vũ khí hiện đại nhất, bao gồm cả hoả tiễn hạt nhân và đầu đạn hạt nhân chiến thuật. Liên Xô còn vạch ra kế hoạch thực hiện một cuộc tấn công hạt nhân kiểu “ngoại khoa” vào Trung Quốc. Các mục tiêu không chỉ bao gồm các căn cứ phóng hoả tiễn như Tửu Tuyền, mà cả các thành phố lớn như Bắc Kinh, Trường Xuân, An Sơn cũng nằm trong danh sách.
Vào thời khắc quan trọng, Hoa Kỳ đã ra tay. Đầu tiên, tờ Washington Post đã tiết lộ kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Liên Xô. Mao Trạch Đông không thể ngờ rằng trận chiến ở đảo Trân Bảo lại chọc vào một tổ ong vò vẽ lớn như vậy.
Ở Bắc Kinh, các cuộc tuần hành, biểu tình phản đối sự xâm lược của Liên Xô đều được tổ chức có kế hoạch. Nhưng quý vị có biết không, cùng lúc đó, ở Mát-xcơ-va và các khu vực Viễn Đông, một sự căm thù lớn trong dân chúng cũng đang âm ỉ. Người Liên Xô cũng xuống đường. Một mong muốn trả thù mạnh mẽ, tự phát nhắm vào người Trung Quốc đang sôi sục trong lòng họ.
Nhưng Mao Trạch Đông đã không còn kiểm soát được tình hình nữa. Một chiến dịch sơ tán quy mô lớn các cơ quan trung ương của đảng và nhà nước đã bắt đầu. Nói trắng ra là bắt đầu chạy. Mao Trạch Đông đến Vũ Hán, Lâm Bưu đến Tô Châu. Chu Ân Lai cùng các cơ quan trung ương và bộ chỉ huy rút về Tây Sơn, ngoại ô Bắc Kinh.
Chiến tranh sắp nổ ra. Vào thời khắc quyết định, Tổng thống Hoa Kỳ Nixon đã triệu tập một cuộc họp quốc phòng khẩn cấp. Cuộc chiến tranh nhiệt hạch giữa hai kẻ thù truyền kiếp là Hoa Kỳ và Liên Xô chưa xảy ra, mà hai nước anh em xã hội chủ nghĩa lại sắp lao vào một cuộc chiến hủy diệt. Nhưng chiến tranh hạt nhân là hành động hủy diệt loài người, phải được ngăn chặn.
Thế là Hoa Kỳ đã rút ra một lá bài mà họ đã giữ lại từ cuộc khủng hoảng hoả tiễn Cuba năm 1962. Đó là gì? Là mật mã đã được giải mật của Liên Xô. Họ đã dùng mật mã này để gửi đi một chỉ thị tổng thống, tấn công hạt nhân vào 134 thành phố, cứ điểm quân sự, trung tâm giao thông và cơ sở công nghiệp nặng của Liên Xô. Họ nói thẳng với Mát-xcơ-va: Chúng tôi chuẩn bị tấn công các vị.
Ngày 15 tháng 10 năm 1969, Kosygin, lòng đầy hoang mang, đã báo cáo với Brezhnev: “Hoa Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng lợi ích của Trung Quốc có liên quan đến họ, và họ đã vạch ra một kế hoạch cụ thể cho cuộc chiến tranh hạt nhân chống lại chúng ta”.
Brezhnev không tin: “Đồng chí Kosygin, Hoa Kỳ sẽ đứng về phía Trung Quốc ư? Thật là chuyện hoang đường”. Ông ta ngay lập tức gọi điện đến đại sứ quán ở Hoa Kỳ. Vài phút sau, Đại sứ Dobrynin từ bên kia Đại Tây Dương báo cáo với Brezhnev: “Tình hình là thật”.
Kissinger đã bày tỏ rõ ràng rằng Tổng thống Nixon tin rằng lợi ích của Trung Quốc gắn liền với lợi ích của Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ sẽ không ngồi yên. Nếu Trung Quốc bị tấn công hạt nhân, họ sẽ coi đó là sự khởi đầu của Chiến tranh Thế giới thứ ba và họ sẽ tham chiến trước. Kissinger còn tiết lộ: “Tổng thống đã ký một mệnh lệnh bí mật, chuẩn bị trả đũa hạt nhân vào hơn 130 thành phố và căn cứ quân sự của Liên Xô. Một khi có một quả hoả tiễn tầm trung của Liên Xô rời bệ phóng, kế hoạch trả đũa của Hoa Kỳ sẽ được khai triển toàn diện”.
Nghe xong, Brezhnev tức giận đến mức những tấm huân chương treo trên ngực ông ta rung lên bần bật. Ông ta gầm lên: “Hoa Kỳ đã bán đứng chúng ta”.
Mao Trạch Đông lúc này mới nhận ra sự khác biệt giữa Liên Xô và Hoa Kỳ. Hoa Kỳ muốn phát động chiến tranh phải được Quốc hội phê chuẩn. Trong Chiến tranh Triều Tiên, dù có bao nhiêu người chết, họ cũng không trả đũa bằng cách tấn công vào vùng Đông Bắc Trung Quốc. ĐCSTQ và Đảng Cộng sản Liên Xô thì khác. Chỉ cần vài người trong Bộ Chính trị, thậm chí chỉ một người, là có thể quyết định phát động chiến tranh. Người Nga cực kỳ tàn bạo, không quan tâm đến nhân đạo. Nếu bị dồn vào chân tường, cuộc chiến này chắc chắn sẽ xảy ra. Thực tế, những người có tầm nhìn xa ở Trung Quốc đã sớm nhận ra rằng, kẻ thù lớn nhất và mối đe dọa nguy hiểm nhất đối với dân tộc Trung Hoa chính là Nga.
NHÃN QUAN CỦA NGƯỜI NGA VỀ TRUNG QUỐC: TÌNH BẠN CHỈ LÀ BỀ NỔI
Vậy chúng ta có hiểu người Nga nhìn nhận người Trung Quốc như thế nào không? Ở Nga có một bộ phim tài liệu mang tên “Tình bạn tượng hình”. Bộ phim sử dụng rất nhiều tư liệu hình ảnh lịch sử quý giá để xem xét lại toàn diện mối quan hệ Nga-Trung. Tên phim là “Tượng hình”, mang hai ý nghĩa. Một là để chỉ Trung Quốc, quốc gia sử dụng chữ Hán. Hai là để mỉa mai tình hữu nghị Nga-Trung, cũng giống như chữ tượng hình, chỉ có vẻ bề ngoài.
Trong tập đầu tiên của bộ phim, sự thật về “Sự kiện đảo Trân Bảo” và sự kiện trả đũa ở Tân Cương mang tên “Sự kiện Tielieketi” đều là những thước phim thực tế. Những cảnh quay và sự thật này từ lâu đã bị chính phủ ĐCSTQ cố tình che giấu, vì vậy, khi xem những hình ảnh này trong phim, chúng trở nên đặc biệt quý giá.
Bộ phim này từng được chiếu trên đài truyền hình quốc gia của Nga. Sau đó, do sự phản đối của phía Trung Quốc và vì nó có thể dễ dàng kích động chủ nghĩa dân tộc bài Hoa ở Nga, bộ phim đã bị cấm. Nhưng nó đã được lan truyền rộng rãi trên internet, quý vị có thể tìm xem.
Trong một đoạn quảng cáo cho bộ phim có viết: “Tình hữu nghị vĩ đại Xô-Trung từ trước đến nay luôn là một trò chơi chỉ có một kết cục duy nhất”. Ở đây xin bổ sung, “một kết cục duy nhất” nghĩa là gì? Giống như cuộc chiến và sự hủy diệt ở đảo Trân Bảo vừa nói. “Dù là thời Liên Xô hay thời Nga, Trung Quốc chưa bao giờ là đối tác chiến lược thực sự của chúng ta. Hành vi của con rồng Trung Quốc luôn tự tư tự lợi. Trung Quốc đang dần dần chiếm đoạt lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên của chúng ta. Họ làm mưa làm gió trong các khu phố Tàu trên khắp nước Nga. Chính phủ Nga vì lễ nghi ngoại giao mà giữ im lặng, mọi thứ đều được bao biện bằng tình hữu nghị”.
Các cảnh quay trong phim cho thấy sự bành trướng của người nhập cư Trung Quốc ở Viễn Đông thời hậu Xô Viết. Cảnh người Trung Quốc đến các khu rừng taiga ven biển để chặt phá rừng. Cảnh vũ khí mà Nga bán rẻ cho Trung Quốc đang bị tháo dỡ để phát triển thành hệ thống vũ khí mới, quay ngược lại để đối phó với Nga. Phim còn có cảnh quay những vị khách Trung Quốc ở Khabarovsk và Blagoveshchensk, bắt chó trên đường phố để ăn thịt. Đó chính là hình ảnh của Trung Quốc trong mắt người Nga.
Họ sẽ không suy ngẫm về thảm sát Hải Lan Phao và Giang Đông Lục Thập Tứ Đồn. Họ sẽ không nói rằng Nga và Liên Xô đã cướp đi bao nhiêu lãnh thổ của Trung Quốc. Họ sẽ nói đó không phải là cướp, đó là do lãnh đạo ĐCSTQ sau này, Giang Trạch Dân, đã tự nguyện đồng ý trao cho họ, có hiệp ước hẳn hoi.
Những năm 90, một số “đảo gia” Trung Quốc đã phất lên nhờ kinh doanh ở Mát-xcơ-va từng đặt ra một câu hỏi thế kỷ. Họ nói: “Chúng tôi kiếm được rúp của họ, ngủ với phụ nữ của họ, tại sao họ vẫn coi thường chúng tôi?”. Quý vị thấy đấy, các “đảo gia” Trung Quốc cả đời cũng chỉ mang danh “đảo gia”. Thậm chí không ai gọi họ là doanh nhân. Ăn chơi trác táng, bán hàng giả, thời hoàng kim không kéo dài được bao lâu.
Con đường buôn bán hoang dã như ở Nhã Bảo Lộ, sau khi Nga gia nhập WTO năm 2011, ngày càng trở nên khó khăn. Thêm vào đó là sự tác động của thương mại điện tử, khách hàng ở Nhã Bảo Lộ ngày càng ít, kinh doanh không còn lợi nhuận. Một gian hàng trước đây trị giá hàng triệu, bây giờ cho không cũng không ai lấy.
Ở Nhã Bảo Lộ, ngay tại thủ đô Bắc Kinh của mình, họ tự treo biển “Người Trung Quốc không được vào”. Quý vị tự kỳ thị người Trung Quốc của mình, làm sao có thể mong người khác tôn trọng mình? Hơn nữa, quý vị kiếm tiền của người khác, ngủ với phụ nữ của người khác, rồi còn bán cho họ hàng giả, lương tâm của quý vị ở đâu?
Nước Nga đã phải chịu đựng sâu sắc sự tàn phá của chủ nghĩa cộng sản, trở nên nghèo đói như vậy. Nhưng quý vị có để ý không? Khi xưa, họ mặc quần áo chỉnh tề, thắt cà vạt, xếp hàng cả ngày, không chen lấn, có trật tự để mua bánh mì theo tem phiếu. Quý vị có để ý không, công dân của họ, thậm chí cả những đảng viên cộng sản sau này, đều đến nhà thờ vào cuối tuần.
Trên thế giới không có quốc gia nào khác lại sản xuất một cách có hệ thống một bộ phim tài liệu đầy cảm xúc bài Hoa như vậy. Không khó để nhận ra, người Nga đối với người Trung Quốc có một sự khinh miệt và căm ghét tột độ, xuất phát từ đáy lòng, không hề che giấu. Trong mắt họ, những người Trung Quốc tự cho mình là tốt, đang trỗi dậy, giàu có, là những kẻ không có tín ngưỡng, ích kỷ, chỉ biết dùng tiền để cướp bóc. Và sau 100 năm, họ vẫn là những đứa con côi của châu Á.
Năm 2009, khu chợ container lớn ở Mát-xcơ-va, nơi tập trung hàng vạn thương nhân Hoa kiều, đã bị đóng cửa. Hàng tỷ đô la Mỹ đã bị phía Nga tịch thu với lý do hàng hóa chất lượng kém. Giữa vô số lời chỉ trích, ĐCSTQ cũng đã cử một phái đoàn đến Mát-xcơ-va để đàm phán. Những thương nhân Hoa kiều ở Nga khi đó đã có lúc mừng rơi nước mắt. Tổ quốc đã đứng ra bảo vệ họ. Nhưng trong tuyên bố sau cuộc hội đàm, phía Nga đã hùng hồn nói rằng phái đoàn Trung Quốc ủng hộ các biện pháp mạnh tay của Nga để trấn áp các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp. Ngụ ý rằng, các biện pháp cứng rắn của Nga đối với người Hoa đã được sự ủng hộ của ĐCSTQ. Các vị người Hoa còn bất mãn điều gì nữa, hãy đi tìm chính phủ của các vị mà nói.
Và các quan chức của Đại sứ quán ĐCSTQ, đối mặt với những doanh nhân Trung Quốc đầy uất ức, chỉ nói một câu: “Đại sứ quán phục vụ cho quốc gia”.
Nhà máy nước của Trung Quốc bên hồ Baikal gần đây đã trở thành đối tượng để người dân địa phương trút giận. Họ nói: “Hàng năm, một lượng lớn du khách Trung Quốc đến hồ Baikal, chụp ảnh, chụp ảnh, rồi để lại hàng container rác rưởi và rời đi. Bây giờ các người còn muốn lấy đi cả tài nguyên của chúng tôi”. Người Nga đã bùng nổ.
Không biết quý vị đã từng đến hồ Baikal chưa? Hướng dẫn viên du lịch người Hoa ở đó gần như chắc chắn sẽ nói với quý vị một câu: “Hồ Baikal xinh đẹp trước mắt quý vị, từ xưa đến nay đã là một phần lãnh thổ của Trung Quốc”.