Lứa tuổi hay mắc viêm khớp tự phát tuổi thiếu niên là từ 6-15. Bệnh có thể gây tàn phế nếu không được phát hiện sớm và điều trị đúng.

Viêm khớp tự phát tuổi thiếu niên là một trong những nhóm bệnh thường khởi phát sau nhiễm virus. Theo một số thống kê ở Mỹ và châu Âu cho thấy, lứa tuổi mắc bệnh khoảng từ 2-16 tuổi, với tỷ lệ 1/1000 trẻ mỗi năm, nữ gặp nhiều hơn nam. Phần lớn trong số đó thường có diễn biến nhẹ, chỉ khoảng 1/10.000 trường hợp bệnh tiến triển nặng dần.

Dấu hiệu bệnh viêm khớp tự phát tuổi thiếu niên
Viêm khớp tự phát tuổi thiếu niên là một trong những nhóm bệnh thường khởi phát sau nhiễm virus. (Ảnh minh họa)

Khi có dấu hiệu viêm khớp thiếu niên dưới đây, phụ huynh nên đưa trẻ đến bệnh viện có phòng khám chuyên khoa cơ xương khớp để thăm khám và điều trị kịp thời.

Dấu hiệu nhận biết

Thể viêm một hay vài khớp: Trẻ bị viêm dưới bốn khớp, thường gặp ở bé gái từ 2-5 tuổi (3 tuổi là nhiều nhất). Khi mắc bệnh thể này, trẻ thường bị tổn thương, đau các khớp xương ở gối, cổ chân, khuỷu tay và các khớp nhỏ như khớp bàn tay, bàn chân.

Viêm nhiều khớp yếu tố dạng thấp dương tính: Bệnh hay gặp ở bé gái trên 10 tuổi, các biểu hiện viêm khớp giống như bệnh viêm khớp dạng thấp ở người lớn. Viêm các khớp nhỏ và nhỡ có tính chất đối xứng, người bệnh thường cứng khớp vào buổi sáng sau khi thức dậy.

Viêm khớp dạng thấp thường gặp ở các bé gái trên 10 tuổi. (Ảnh: LiLy App)

Thỉnh thoảng có biểu hiện ngoài khớp như hạt dưới da, viêm mạch. Nếu không được điều trị đúng cách, bệnh dễ để lại hậu quả và biến chứng nặng nề, ảnh hưởng đến chức năng vận động của trẻ.

Viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận: Bệnh thường gặp ở trẻ từ 12 -16 tuổi, tỷ lệ bé trai mắc bệnh cao hơn bé gái. Các khớp viêm như khớp háng, gối, cổ chân hay các khớp nhỏ, khớp không đối xứng. Thể này tiến triển nhanh, dẫn đến dính khớp gây tàn phế.

Viêm khớp vảy nến: Thường xuất hiện ở lứa tuổi 7 đến 11 với các biểu hiện tổn thương ở khớp. Viêm ở cả khớp lớn và khớp nhỏ, các khớp viêm không đối xứng, tổn thương nặng nhất ở khớp gối. Dấu hiệu là ngón tay, chân hình “khúc dồi” và những tổn thương lõm hoặc bong ở móng tay, chân là những triệu chứng quan trọng để chẩn đoán bệnh.

Điều trị

– Vật lý trị liệu nhằm duy trì đến mức tối đa tầm vận động của khớp, tránh cứng khớp, dính khớp. Có thể dùng các biện pháp như sóng ngắn, tia hồng ngoại, tắm suối khoáng, tập các bài tập phục hồi chức năng vận động khớp… Tuy nhiên, trong thời gian đau nhiều có thể tạm thời bất động khớp nhưng cần lựa chọn tư thế sao cho giữ được biên độ vận động lớn nhất.

– Cố gắng duy trì các sinh hoạt thường ngày của trẻ như khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động xã hội, học tập ở trường lớp bình thường như những đứa trẻ khác. Tuy nhiên trong những đợt tiến triển nên cho trẻ nghỉ ngơi, chế độ dinh dưỡng tốt và đặc biệt có giấc ngủ đầy đủ.

Có chế độ chăm sóc hợp lý cho trẻ. (Ảnh: Likar.info)

– Dùng thuốc giảm đau thông thường, thuốc chống viêm giảm đau và các thuốc điều trị cơ bản tức thuốc tác động vào hệ thống miễn dịch của cơ thể nhằm làm giảm, khống chế quá trình viêm khớp.

– Các biện pháp điều trị ngoại khoa như nội soi khớp, rửa khớp, cắt bỏ màng hoạt dịch được chỉ định trong những trường hợp viêm khớp kéo dài, không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác đặc biệt là những khớp trung bình và lớn như khớp gối, khớp vai. Thay khớp một phần hay toàn bộ nhằm giảm đau, gỡ dính khớp tránh tình trạng bất động kéo dài do khớp bị tổn thương nặng. Chủ yếu là thay khớp gối và khớp háng.

– Cố gắng duy trì các sinh hoạt thường ngày của trẻ như khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động xã hội, học tập ở trường lớp bình thường như những trẻ khác. Tuy vậy khi bệnh tiến triển phụ huynh nên cho con nghỉ ngơi, chế độ dinh dưỡng tốt và đặc biệt có giấc ngủ đầy đủ.

Phương Nam