Thời Tây Tấn có một danh y nổi tiếng về mạch học. Ông có hai đóng góp quan trọng trong lịch sử y học Trung Quốc: một là chỉnh sửa biên tập lại “Thương hàn tạp bệnh luận” của Trương Trọng Cảnh, hai là người đầu tiên viết bộ sách chuyên ngành nghiên cứu về phương pháp thiết mạch tên gọi ‘Mạch kinh’.
Thiết mạch (tức là bắt mạch) là một trong những phương pháp chủ yếu chẩn đoán bệnh trong Y học cổ truyền. Phát kiến bắt mạch trễ nhất bắt đầu từ thời nhà Chu. Trong bộ sách cổ Chu Lễ có đoạn ghi chép bắt mạch có thể quan sát được diễn biến của bệnh trong nội tạng. Lúc đầu bắt mạch thường bắt ở ba vùng cổ, tay, chân, vì ba vùng đó thịt không nhiều, động mạch nằm dưới lớp da dễ chẩn đoán bệnh hơn. Người thời bấy giờ gọi chung là “Tam bộ mạch phép”. Các nhà y học cổ đặc biệt gia công nghiên cứu về phép bắt mạch, người có công đầu đáng kể nhất là Vương Thúc Hòa.
Vương Thúc Hòa, tên thật là Vương Hi, người Cao Bình, nay thuộc tỉnh Sơn Đông. Ông là danh y nổi tiếng sống vào cuối thời Hán, đầu thời Tây Tấn. Ông từng làm thái y chuyên chăm sóc sức khỏe cho Tào Tháo, sau làm thái y ở vương phủ và hoàng thất, cuối cùng đảm trách Thái y lệnh. Theo ghi chép trong Danh y truyền của Cam Bá Tông đời Đường, ông là người có tính cách trầm tĩnh, có học vấn uyên bác phong phú về y thuật, tinh thông mạch học và các phương pháp trị liệu, am hiểu sâu sắc đạo lý tu thân dưỡng sinh.
Có công thiên cổ, biên tập hiệu chỉnh ‘Thương hàn luận’
“Thương hàn luận” của Trương Trọng Cảnh là bộ trước tác y học nổi tiếng thời Đông Hán. Bởi thời đó thư sách đều viết và cất giữ đơn giản, lại chiến tranh liên miên, đã bị thất lạc không còn trọn vẹn. Khi Vương Thúc Hòa làm Thái y lệnh, ông đã cất công thu thập chỉnh lý lại bản thảo nguyên gốc của bộ sách. Trong quá trình biên tập, căn cứ vào lý giải của bản thân tách ra thành hai bộ “Thương hàn luận” và “Kim Quỹ yếu lược” lưu truyền đến ngày nay. Nếu không có ông, hậu thế khó có thể hiểu sâu học thuyết của danh y Trương Trọng Cảnh, thậm chí còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nền y học cổ truyền. Vì vậy, danh y thời nhà Thanh – Từ Linh Thai mới nói: “Nếu không có Thúc Hòa, đừng hòng có Trọng Cảnh”.
Kế thừa và phát triển lập nên bộ sách Mạch học
Vào thời Ngụy, Tấn, tư tưởng Đạo gia bắt đầu lan rộng, tổ chức đạo giáo đã hình thành. Học thuật bị ảnh hưởng, nhiễm nhiều màu sắc huyền bí, y học cũng không ngoại lệ, nhiều phương pháp trị liệu không xác đáng gây trở ngại cho nền y học chân chính phát triển. Trước tình hình đó, trước sau như một, Vương Thúc Hòa luôn kiên định lập trường đi theo con đường phát triển y học chân chính, miệt mài nghiên cứu chẩn đoán học của ông, sáng tạo và làm nên những thành tích rực rỡ cho Mạch học Trung Quốc.
Vương Thúc Hòa đã tổng kết kinh nghiệm của tiền nhân và tâm đắc trong thực tiễn bản thân, soạn ra một trước tác vĩ đại chính là bộ sách chuyên về chẩn mach đầu tiên tên Mạch kinh. Kiệt tác tổng cộng có trên 110 nghìn từ, chia thành 10 quyển gồm 98 thiên.
Trong quyển một, trước tiên ông chia mạch ra thành 24 loại, đó là điều trước kia chưa từng có. Trước kia phân loại rất ít, mà nói cũng không xác đáng. Vương Thúc Hòa thấy cần phải tổng hợp một cách hoàn bị. Ông đã vén màn bí mật, chia sẻ cách cảm nhận, phân biệt của thầy thuốc khi bắt mạch và quy thành 24 loại. Dưới mỗi mạch tượng, đều hiện rõ như miêu tả trong thiên thứ nhất cuốn Khai Tông Minh Nghĩa. Ông đã hệ thống một cách khoa học dễ hiểu, hỗ trợ rất nhiều cho các danh y đời sau. Trong mỗi mạch tượng lại phân tích rõ ràng, không hề lẫn lộn trùng lắp. Cuối cùng ông còn chỉ ra loại hình của 8 tổ nhóm mạch tượng.
Đối với khoa học bộ sách còn có giá trị ở chỗ, 24 loại mạch mà ông đã chỉ ra, cơ bản đã bao gồm hết mạch tượng trong hệ thống tuần hoàn hiện nay. Ông đã biết được điều này cách đây 1.600 năm quả là đáng nể phục.
Căn cứ theo kiến thức sinh lý học ngày nay, mỗi khi tim co bóp sẽ sản sinh ra sóng áp lực, gọi là sóng mạch, truyền đi động mạch khắp toàn thân, lấy ngón tay sờ lên bề mặt của lớp da, sẽ nhận biết được nhịp đập lên xuống của sóng mạch, đó là mạch đập. Bắt mạch có thể nhận ra nhịp đập và tình trạng máu lưu thông trong huyết quản, vị trí mạch cao thấp, suất tốc độ (tần số nhanh chậm), tiết luật mạnh yếu (nhịp của mạch) và tình trạng vách huyết quản (hình thái to nhỏ của mạch). Trong đó, suất tốc độ và tiết luật hoàn toàn do nhịp đập của tim chi phối, tình trạng của vách huyết quản là do sự thay đổi của huyết quản quyết định, mà lớn nhỏ là do lượng đập ra của tim. Nồng độ và mức độ khẩn trương của huyết quản tạo nên, dưới ngón tay bắt mạch, cảm giác được mạch tượng, nhất là trong tình trạng bị đau ốm càng hiện rõ hơn. Ngày nay ứng dụng lâm sàng, bắt mạch vẫn chiếm một vị trí quan trọng.
Ví dụ lấy suất tốc độ của mạch tượng, số nhịp đập nhanh đó là sác mạch, tỷ số mạch càng nhanh đó là tật mạch, số lần nhịp đập ít đó là hoãn mạch và trì mạch. Nói đến tiết luật, nhịp đập không đều là kết mạch, đại mạch, xúc mạch. Nói về vách huyết quản, bắt mạch thấy căng như dây thừng gọi là khẩn mạch. Luận về lớn nhỏ, phù, khổng, hoạt, thực, v.v đều là đại mạch tượng. Vi, trầm, tường, phục, nhuyễn, v.v đều là tiểu mạch tượng. Mà một mạch tượng còn có thể kiêm nhiều thứ mạch tượng, ví dụ hoãn mạch là mạch tượng nhỏ mà số lần nhịp đập ít, vì vậy cần phải phân biệt tỉ mỉ, đoán được rõ ràng, chẩn đoán bệnh mới chính xác. Trong bộ sách của ông thì đã phân biệt rất tường tận, khiến người ta phải nể phục cặp mắt quan sát, trí phán đoán toàn diện, sâu sắc của ông. Ông còn kê ra một cách có hệ thống lộ trình chẩn đoán và trị bệnh, ghi chép tường tận, hôm nay xem ra vẫn còn rất đúng.
Ảnh hưởng của bộ sách không chỉ ở Trung Quốc. Vào năm 562, những kiến thức về mạch học này đã được lưu truyền sang Triều Tiên và Nhật Bản. Avicenna (khoảng 980 ~ 1037), được coi là ‘thánh y’ của nền y học Ả Rập, trong kỳ danh ‘Y điển’ cũng rất coi trọng chẩn mạch. Trong đó có ghi chép về tên của 48 loại mạch, có rất nhiều tên mạch trùng hợp với tên mạch trong cuốn Mạch kinh của Vương Thúc Hòa. Qua đây có thể thấy, từ trước thế kỷ thứ 10 bộ sách đã được truyền vào Ả Rập. Năm 1313, Thủ tướng Ba Tư Hamni đã yêu cầu các bác sĩ của nước mình biên soạn một bộ bách khoa toàn thư về y học Trung Quốc, trong đó có yêu cầu dịch bộ sách này. Từ thế kỷ thứ 17 đến nay, nó đã được dịch ra rất nhiều ngôn ngữ và được lưu truyền rộng rãi ở châu Âu.
Kiên Định
Nguồn tham khảo: Những câu chuyện Trung Hoa xưa – Danh y phần 2, zhengjian,