Chào mừng quý vị đến với Trăm năm chân tướng!

Từ năm 1959 đến năm 1961, cuộc vận động “Đại nhảy vọt” của ĐCSTQ đã dẫn đến nạn đói lớn kéo dài 3 năm trên khắp cả nước. Người chết đói khắp nơi, còn xảy ra thảm kịch người ăn thịt người, gần 40 triệu người chết đói. Tuy nhiên, điều mà 700 triệu người dân Trung Quốc lúc bấy giờ không bao giờ nghĩ tới, chính là “mặt trời đỏ” Mao Trạch Đông mà họ ca tụng đang lặng lẽ xây cất khu biệt thự dã ngoại mới cho mình tại quê nhà.

Mao Trạch Đông đích thân ra lệnh xây dựng khu biệt dã Tích Thủy động vào năm 1960. Có người ước tính rằng, chi phí vào thời điểm đó lên tới hơn 3,55 triệu nhân dân tệ. Đó là còn chưa bao gồm chi phí vật liệu xây dựng, nhân công xây dựng và một lượng lớn các công trình phụ trợ như sửa chữa đường xá cảnh quan. Có người ước tính chi phí thực tế lên tới 100 triệu.

Tuy nhiên, trong 14 năm kể từ khi hoàn thành cho đến khi Mao qua đời, Mao chỉ sống động Tích Thủy đúng 10 đêm. Còn chưa tính chi phí vận hành, duy tu và canh gác khu biệt dã, xét theo giá trị tiền tệ thực tế vào những năm 1960, thì chi phí cho chiếc giường của Mao đêm đó vào khoảng 10 triệu nhân dân tệ, có thể coi là “chiếc giường đắt nhất thế giới”. 

Vậy “chiếc giường” này trông như thế nào? Nó tồn tại kiểu tồn tại gì đối với Mao? Trong tập này chúng ta sẽ nói về khu biệt dã động Tích Thủy.

Mao ám thị “xây một túp lều tranh”

Mao Trạch Đông đã hai lần chỉ đạo Bí thư Tỉnh ủy Hồ Nam xây khu biệt dã cho riêng mình.

Một bài báo đăng trên nguyệt san Lịch sử Đảng “Đảng sử Bác Thái” tiết lộ rằng, vào tháng 6 năm 1959, Mao trở về thăm quê, sau khi bơi ở hồ Thiều Sơn, Mao nói với Chu Tiểu Châu, bí thư Tỉnh ủy Hồ Nam đi cùng rằng: muốn “xây một túp lều tranh” để ở sau khi nghỉ hưu. Vào tháng 5 năm 1960, Mao đến Hồ Nam, lại nói với Trương Bình Hoa, bí thư tỉnh ủy mới nhậm chức, rằng ở Thiều Sơn có động Tích Thủy, nếu xây nhà ở đó thì rất tốt.

Với địa vị của Mao lúc bấy giờ, loại “túp lều” hay “nhà” nào có thể chứa được ông? Vì vậy “xây túp lều” và “xây nhà” được diễn dịch thành một công trình cấp quốc gia lâu dài, tốn kém và tuyệt mật.

Vào nửa cuối năm 1960, dự án khu biệt dã động Tích Thủy, có mật danh là “203”, được khởi động tuyệt mật. Toàn bộ công trình được bảo mật nghiêm ngặt đối với thế giới bên ngoài, do Quân đoàn Công binh Giải phóng quân phụ trách thi công. Do các biện pháp bảo mật được áp dụng, nên ngay cả người dân địa phương cũng không biết về nó.

Biệt dã động Tích Thủy trông như thế nào?

Sau hơn hai năm xây dựng, công trình động Tích Thủy cơ bản hoàn thành vào năm 1962. Kiến trúc chính bao gồm ba tòa lầu tổ thành, trong đó lầu số 1 dành riêng cho Mao Trạch Đông, bao gồm các văn phòng, phòng ngủ, phòng hội nghị, v.v., là nơi Mao làm việc và sinh sống. Đây là biệt dã một tầng hình chữ T với gạch xanh theo phong cách Xô Viết. Hai bên có hành lang khép kín, kết hợp phong cách Trung Hoa và phương Tây, ấm áp vào mùa đông, mát mẻ vào mùa hè, dễ bảo mật. Lầu số 1 là cốt lõi của toàn bộ công trình, rất giống với nơi ở của Mao ở Trung Nam Hải.

Năm 1970, một hầm trú ẩn không kích dài 100 mét được xây dựng phía sau Lầu số 1. Một lượng vật liệu và nhu yếu phẩm nhất định được lưu trữ trong động trong nhiều năm. Một bên hầm tránh bom còn có các cơ sở quân sự như phòng chống địa chấn và phòng chỉ huy. Những cánh cửa sắt chì nặng vài tấn được lắp đặt ở hai đầu cửa hang, hoàn toàn có thể chịu được một lượng vụ nổ bom nguyên tử đương lượng nhất định.

Lầu số 2 có 24 phòng, là nơi nghỉ ngơi của các lãnh đạo trung ương đi cùng và được kết nối chặt chẽ với lầu số 1. Lầu số 3 cách lầu số 1 và 2 hơn 100m, là nơi ở của các nhân viên an ninh và nhân viên khác. Ngoài ra, đội kỹ sư còn xây dựng con đường từ nơi ở cũ của Mao đến động Tích Thủy.

Năm 1970, công trình động Tích Thủy được mở rộng và bổ sung thêm thiết bị điều hòa không khí. Uông Đông Hưng, chủ nhiệm Văn phòng Trung ương ĐCSTQ đương thời, đã tham gia thiết kế phòng ngủ và phòng tắm mới dựa trên thói quen sinh hoạt của Mao.

“11 ngày” của Mao ở biệt dã

Từ ngày 18 tháng 6 đến ngày 28 tháng 6 năm 1966, Mao Trạch Đông ẩn cư ở động Tích Thủy trong 10 đêm 11 ngày. Khi đó, Mao có lần đi dọc lầu số 1, vừa đi vừa ngắm nhìn, rồi nhìn lên những ngọn núi xung quanh, rất là hài lòng.

Trong thời kỳ này, người duy nhất biết tung tích của Mao là Chu Ân Lai. Chu mỗi ngày đều phái một chuyên cơ từ Bắc Kinh đến chuyển văn kiện cho Mao, sau đó lại dùng xe hơi mang tài liệu từ Trường Sa đến Thiều Sơn để Mao thẩm duyệt.

Khi đó, công tác an ninh nội bộ của Mao do Đơn vị 8341 do Trương Diệu Từ phụ trách, còn công tác cảnh vệ ngoại vi do Sở Công an tỉnh Hồ Nam đảm nhiệm.

Trong cuốn sách “Trương Diệu Từ hồi ức Mao Trạch Đông”, Trương Diệu Từ kể lại, khi Mao sống trong “động Tích Thủy”, ông không gặp bất kỳ ai. Ngoài việc xử lý văn kiện, đọc sách, đọc báo hàng ngày, Mao dành thời gian còn lại để suy nghĩ vấn đề, không ai được làm phiền ông ấy.

Mao từng nhờ Trương xem có thể bơi ở hồ Thanh Niên gần động Tích Thủy hay không. Hồ Thanh Niên có làn nước trong vắt, là nơi lý tưởng để bơi lội. Nhưng lúc đó Mao đang điên đầu trong đống hỗn loạn của “Đại nhảy vọt”, làm gì có tâm nhàn để bơi.

Trong 11 ngày đó, lần duy nhất Mao ra ngoài là ngồi trên xe lăn cùng với những người khác, ra ngoài đi dạo, và chỉ đi được 300 mét. Trước khi rời đi, Mao còn nói: “Quản lý nhà thật tốt! Tôi sẽ quay lại!”

Không có báo cáo nào về 11 ngày Mao ở động Tích Thuy. Sau đó, tin tức đăng trên báo chí cũng che giấu địa điểm cụ thể mà Mao đã đến. Các cơ quan tình báo nước ngoài cũng không phát hiện được Mao đã đi đâu.

Theo bài viết “Mao Trạch Đông ở động Tích Thủy” ở Thiều Sơn đăng trên tờ “Văn học lịch sử Hồ Bắc”, chiều ngày 17/6, khi Mao vào động Tích Thủy, tình cờ có vài cô bé đang cắt cỏ bên lề đường  động Tích Thủy. Một tiểu cô nương họ Mao đã nhận ra Mao.

Sau khi trở về nhà, cô bé đã báo cáo sự việc với cha mình là Mao Kế Sinh. Không ngờ đêm đó người của Sở Công an tỉnh Hồ Nam đã đến nhà Mao Kế Sinh và đưa ra một thông báo đặc biệt, rằng Mao Trạch Đông đang ở Bắc Kinh, người gặp buổi chiều là Lý Cường, sở trưởng Công an tỉnh Hồ Nam. Vì vậy, tin Mao trở lại Thiều Sơn không được lan truyền.

Mao muốn quay trở lại động Tích Thủy trước khi chết

Tháng 6 năm 1976, Mao lâm bệnh nặng, đặc biệt nhớ quê hương. Vào tháng 8, khi bệnh tình nhẹ hơn một chút, Mao nhất quyết muốn quay lại động Tích Thủy để hưu dưỡng, nhưng không được Trung ương ĐCSTQ cho phép. Tháng 9, Mao vẫn tâm tâm niệm niệm muốn trở về Thiều Sơn. Sau nhiều lần kiên trì, Bộ Chính trị cuối cùng đã đồng ý cho phép ông trở lại động Tích Thủy ở Thiệu Sơn vào ngày 15 tháng 9. Tuy nhiên, Mao đã không đợi được đến ngày này.

Ngày 8 tháng 9 năm 1976 là ngày cuối cùng của Mao còn sống. Theo bài báo “24 giờ cuối cùng trong cuộc đời Mao Trạch Đông”, sáng ngày 8/9, Liệu Thời Vũ, viên quản lý động Tích Thủy ở Thiều Sơn, nhận được cuộc gọi từ Văn phòng Tỉnh ủy, nói rằng Trương Bình Hóa, bí thư Tỉnh ủy, buổi tối sẽ đến động Tích Thủy để kiểm tra công tác, Mao sẽ sớm đến.

Liệu Thời Vũ lập tức triệu tập tất cả nhân viên để sắp xếp các công việc chuẩn bị. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng buổi tối Trương Bình Hóa lại không đến động Tích Thủy. Khoảng 11 giờ đêm, Liệu nhận được cuộc gọi thông báo Trương sẽ không đến.

Chưa đầy hai giờ sau khi Liệu Thời Vũ cúp máy, Mao qua đời tại Bắc Kinh. 

Ba “nỗi xấu hổ” lớn của biệt dã động Tích Thủy

Biệt dã động Tích Thủy mà Mao muốn quay trở lại nhất khi ông lâm bệnh nặng đã để lại ba tấm gương đại ác liệt về việc ĐCSTQ lạm quyền, đốt tiền, coi thường dân sinh.

Trước hết, biệt dã động Tích Thủy là kết quả của việc Mao “lạm quyền”. Nghĩ lại từ đầu, tại sao Mao và hai bí thư Tỉnh ủy Hồ Nam không trực tiếp nói muốn xây biệt dã, mà lại phải vặn vẹo úp mở như vậy? Bởi vì ông ta biết rằng đây không phải là việc quang minh chính đại.

Trong tình huống Mao đã có nhiều hành cung trên toàn quốc, nhưng ông ta vẫn xây biệt dã cho riêng mình ở quê nhà, mà lại là trong tình huống thảm kịch nạn đói lớn toàn quốc, đến đâu cũng thấy người chết đói, thậm chí còn xảy ra bi kịch ‘ăn thịt đồng loại’. Không có bất kỳ đảng quy, chính lệnh hay pháp luật nào của đảng trao cho Mao quyền lực như vậy. Vì vậy, đây là hành vi “lạm dụng quyền lực” điển hình, là hành vi phạm tội vi phạm pháp luật.

Một bằng chứng khác về việc “lạm quyền” là toàn bộ công trình đều sử dụng bộ đội công binh, trong đó có “liên đội Âu Dương Hải” nổi tiếng. Chức năng của quân đội là chống giặc ngoại xâm bảo vệ quốc gia. Việc sử dụng quân đội để thực hiện một công trình dân sự không liên quan gì đến hoạt động quân sự là cực kỳ hoang đường.

Biệt dã động Tích Thủy cũng là một ví dụ điển hình cho việc “đốt tiền” của ĐCSTQ.

Tổng chi phí của công trình động Tích Thủy, bất kể dữ liệu cụ thể là gì, đều là một khoản tiền khổng lồ vào những năm 1960.

Nhà tưởng niệm Mao Trạch Đông ở Bắc Kinh được cải tạo nhỏ hàng năm, và đại tu 10 năm một lần. Nếu theo con số này, thì đã 62 năm kể từ khi động Tích Thủy hoàn thành, nên phải có 62 lần sửa chữa nhỏ và 6 lần đại tu. Tổng chi phí hết bao nhiêu?

Phải mất 14 năm kể từ khi động Tích Thủy hoàn thành vào năm 1962 cho đến khi Mao qua đời. Ngoại trừ 11 ngày Mao lưu trú, biệt dã luôn trong tình trạng “chờ lệnh” suốt 14 năm, vì Mao có thể quay lại bất cứ lúc nào. Chi phí hàng ngày có thể bao gồm: các loại thực phẩm tích trữ luôn được đổi thường xuyên; tiền lương của nhân viên phục vụ tại chỗ, v.v. Sau 14 năm, số tiền là bao nhiêu?

Vào tháng 2 năm 1982, động Tích Thủy được bàn giao cho Cục hành chính Thiệu Sơn của tỉnh Hồ Nam, do khách sạn Thiệu Sơn phụ trách cụ thể, khu vực xung quanh vẫn được quân đội canh gác (hiện là phi đội trực ban đầu tiên của Đội vũ trang Tương Đàm. Công an tỉnh Hồ Nam). Phải đến tháng 9 năm 1984, mới bắt đầu tiếp đãi các lãnh đạo cấp quận, cấp trung đoàn trở lên vào thăm quan nội bộ. Đến lúc đó mới cơ bản chấm dứt lịch sử đốt tiền của động Tích Thủy.

Bản thân việc xây dựng Biệt dã động Tích Thủy là một ví dụ về sự “coi thường dân sinh” của ĐCSTQ. Kinh phí xây dựng biệt thự chủ yếu đến từ chính quyền tỉnh Hồ Nam. Khi đó toàn quốc đang lâm vào nạn đói lớn, hàng chục triệu đồng hương Hồ Nam của Mao không thể ngờ rằng họ còn phải thắt lưng buộc bụng trả tiền cho Mao xây biệt dã động Tích Thủy khi họ sắp chết đói.

Hàng loạt biệt dã lớn được xây dựng trong nạn đói lớn

Hầu hết các dinh thự của Mao được xây dựng vào khoảng thời gian ba năm nạn đói lớn ở Trung Quốc.

Theo thống kê chưa đầy đủ, những công trình được xây dựng hoặc hoàn thành từ năm 1958 đến năm 1959 bao gồm: Khách sạn Hàng Châu Uông Trang, Khách sạn Harbin Hoa Viên, Khách sạn Nam Ninh Tây Viên, Khách sạn Hohhot Tân Thành, Khách sạn Xining Shengli, Khách sạn Tây An Trượng Bát Câu, Khách sạn Lan Châu Ninh Ngọa Trang, Khách sạn Trường Xuân Nam Hồ, Khách sạn Nam Xương Tân Giang, Khách sạn Võ Xương Đông Hồ Mai Lĩnh số 1, Tòa nhà Thiều Sơn Tùng Sơn số 1, Biệt thự Bắc Đới Hà.

Những công trình được xây dựng hoặc hoàn thành từ năm 1960 đến năm 1961 bao gồm: Khách sạn Thượng Hải Tây Giao, Khách sạn Tế Nam Nam Giao, Biệt thự Thiều Sơn động Tích Thủy và Biệt thự số 1 Lư Sơn Lư Lâm.

Trong đó:

Biệt thự “Lư Lâm số 1” ở Lư Sơn được khởi công vào năm 1960 và hoàn thành vào năm 1961. Nó được xây dựng đặc biệt cho Mao lên Lư Sơn, với diện tích xây dựng 2.700 mét vuông, sân rộng hàng chục nghìn mét vuông. Hướng dẫn viên nói rằng hồ Lư Lâm trước biệt thự là hồ nhân tạo. Mao đã lên núi Lư, thích bơi ở đây.

Mai Lĩnh số 1 của khách sạn Võ Xương Đông Hồ còn được gọi là “Biệt dã đồng chí Mao Trạch Đông”. Mai Lĩnh Đông Hồ phong cảnh thướt tha là nơi Mao đã sống lâu nhất ngoại trừ Trung Nam.

Khách sạn Tây Giao Thượng Hải, công trình này có tên là 414, có diện tích hơn 1.000 mẫu Anh. Trong hơn mười năm, Mao chỉ sống ở đó có vài ngày.

Khách sạn Tế Nam Nam Giao được xây dựng vào đầu những năm 1960, có diện tích 1.160 mẫu Anh, diện tích xây dựng là 115.800 mét vuông. Nó được gọi là “Sơn Đông Điếu Ngư đài”, được xây dựng đặc biệt để Mao sống ở Sơn Đông. 

Hầu như tất cả các biệt phủ này đều được xây dựng vào đầu những năm 1960. Vào thời điểm đó, nạn đói lớn do Đại nhảy vọt của Mao gây ra khiến 38,6 triệu người dân Trung Quốc chết đói. Số tiền xây những biệt phủ này có thể cứu được bao nhiêu mạng sống?

Theo Epoch Times,
Mộc Lan biên dịch