Piano Sonata No. 25 in G major, Op. 79 cung Sol trưởng được viết bởi Ludwig van Beethoven vào năm 1809. Nó có tên khác là “Cuckoo” hoặc “Sonatina”. Đây là một trong những bản sonata ngắn nhất của Beethoven với thời gian thực hiện gần đúng chỉ 11 phút, nếu tất cả các lần lặp lại theo quy định của Beethoven đều được chơi.
Piano Sonata No. 25 in G major, Op. 79 gồm 3 chương:
Chương 1: Presto alla tedesca
Chương 2: Andante
Chương 3: Vivace
Clip là trọn vẹn tác phẩm được biểu diễn trực tiếp bởi nghệ sỹ Daniel Barenboim:
Chương đầu tiên mở ra một cách mạnh mẽ với mô-típ ba nốt (G – B – G) được nghe thường xuyên trong suốt chuyển động. Nhóm chủ đề thứ hai trong Rê trưởng dựa trên các đoạn quy mô nhanh và arpeggio và dẫn rất nhanh vào codetta mạnh mẽ. Một vài ghi chú quãng tám do dự được phát trước khi lặp lại giải trình bày. Toàn bộ giải trình dài khoảng 35 giây (không lặp lại).
Phần phát triển chi phối chương này, dài khoảng 60 giây. Nó có tính năng điều chế thường xuyên cũng như các chủ đề được mượn và phân đoạn từ giải trình bày bao gồm cả động cơ ba nốt mở đầu. Motif này bắt đầu từ Mi trưởng, sau đó chuyển sang Si trưởng bảy và sau đó đến Đô thứ, tiếp theo là Sol trưởng bảy. Việc tóm tắt lại khiến người nghe quay trở lại cung nhạc gốc một cách mạnh mẽ với mô-típ ba nốt mở đầu, sau đó tiến hành lặp lại giải trình bày hoàn toàn trong cung nhạc chủ gốc.
Sự phát triển và tóm tắt lại với nhau được đặt trong một dấu lặp lại dài hơn ở lần thứ hai.
Như một điểm cuối cùng, coda có chủ đề chính được chơi trong Sol trưởng ở tay trái với khóa của âm treble, sau đó lại là chủ đề trong La thứ ở tay phải với nhạc đệm bass, sau đó lại được thêm vào acciaccatura hài. Sự tóm tắt và coda cùng nhau chiếm khoảng một phút nữa.
Toàn bộ chương với sự giải thích lặp đi lặp lại kéo dài khoảng ba phút. Nếu lặp lại lần thứ hai do Beethoven quy định, bao gồm sự phát triển và tóm tắt, được chơi, điều này mang lại tổng thời gian thực hiện trong khoảng bốn phút rưỡi.
Chương 2 trong giọng Sol thứ, sử dụng một chủ đề yên tĩnh trong 9 hoặc 8 lần, khá hiếm trong các tác phẩm của Beethoven, và một bầu không khí nhẹ nhàng, nhẹ nhàng để thể hiện sự tương phản với chương đầu tiên ngây ngất. Nó dài khoảng hai phút rưỡi.
Chương cuối là vui nhất và ngắn nhất chỉ dài hai phút. Chương nhạc được xây dựng ở dạng rondo (ABACA và một coda), với chủ đề gồm hai phần và các tập tương phản trong khóa (B) và theo nhịp (C). Một coda rất ngắn gọn đưa bản sonata nhanh nhẹn này đến một kết thúc nhanh chóng. Beethoven sau đó sử dụng tiến trình hợp âm được tìm thấy ở phần đầu của phần A để bắt đầu bản Sonata số 30. So sánh hai bản nhạc cho thấy một minh họa kịch tính về cách viết piano của Beethoven trong 11 năm xen giữa hai bản sonata. Các Op. 109 chủ đề là hoàn toàn tinh vi hơn và kịch tính hơn dẫn người nghe vào thế giới hài hòa khá bất ngờ.
Đôi nét về tác giả
Ludwig van Beethoven (17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Phần lớn thời gian ông sống ở Viên, Áo. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông có thể được coi là người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn.
Beethoven được khắp nơi công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sĩ, và khán giả về sau.
Trong số những kiệt tác của ông phải kể đến các bản giao hưởng như Giao hưởng số 2 Rê trưởng, Giao hưởng số 3 Mi giáng trưởng (Anh hùng ca), Giao hưởng số 5 Đô thứ (Định mệnh), Giao hưởng số 6 Fa trưởng (Đồng quê), Giao hưởng số 7 La trưởng, Giao hưởng số 9 Rê thứ (Niềm vui), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các sonata Bi tráng (Pathétique), Ánh trăng (Moonlight), Bình minh (Waldstein), Khúc đam mê (Appasionata)… các sonata cho vĩ cầm như Mùa xuân (Spring), Kreutzer… các Piano Concerto số 2, số 3, số 5 Emperor (Hoàng đế), Violin Concerto D major… các khúc mở màn Overture Coriolan, Leonore, Egmont… và vở Opera duy nhất Fidelio, v.v