Tác giả: Liên Tử

Lý Bạch, “Vọng Lư Sơn bộc bố thủy”: “Phi châu tán khinh hà, lưu mạt phí khung thạch. Nhi ngã lạc danh sơn, đối chi tâm ích nhàn. Vô luận thấu quỳnh dịch, hoàn đắc tẩy trần nhan. Thả hài túc sở hảo, vĩnh nguyện từ nhân gian.” (Tạm dịch: Hạt châu bay tan thành ráng khói nhẹ, bọt nước chảy sôi trên đá lớn. Mà ta yêu núi danh, đối diện lòng thêm nhàn. Chẳng cần súc miệng bằng rượu tiên, cũng đủ rửa sạch mặt bụi trần. Hãy làm vui lòng sở thích bấy lâu, nguyện vĩnh viễn từ giã cõi nhân gian.) (Trích đoạn trục tranh “Lư Sơn quan bộc” (Ngắm thác Lư Sơn) của Lâm Thư thời Dân Quốc – Bảo tàng Cố cung Quốc gia cung cấp)

Tiết 3: Thi Tiên Lý Bạch

Hình: Chân dung Lý Bạch (Miền công cộng)

Làn sóng thi ca thời Thịnh Đường hùng vĩ tráng lệ, và Lý Bạch chính là âm thanh cao vút tuyệt diệu nhất, là khí tượng thần kỳ lộng lẫy nhất của Thịnh Đường. Ông đã dùng tài năng nghệ thuật phi thường và sức lay động lòng người hùng vĩ, dẫn dắt phong trào thi ca đương thời, đưa thơ ca cổ điển lên đỉnh cao nhất của nền văn minh 5.000 năm Trung Hoa.

Lý Bạch (28 tháng 2 năm 701 – 762) là người hương Thanh Liên, Quảng Hán, Tứ Xuyên (nay là Chương Minh), hiệu Thanh Liên Cư Sĩ. Ông có những mỹ danh như “Thi Tiên”, “Thi Hiệp”, “Tửu Tiên”, “Trích Tiên Nhân”. Tác phẩm của ông tựa thiên mã hành không (ngựa trời bay trên không), lại như mây trôi nước chảy, hùng hồn phóng khoáng, tươi mới tuấn dật, là kinh điển ngàn năm khiến hết thế hệ này đến thế hệ khác phải kinh ngạc thán phục. Đường Văn Tông đã phong thơ ca của Lý Bạch, điệu múa kiếm của Bùi Mân và thư pháp chữ thảo của Trương Húc là “Tam Tuyệt” (Ba điều tuyệt diệu) của nhà Đại Đường.

1. Thái Bạch Kim Tinh hạ phàm

Khi Lý Bạch ra đời, mẹ ông mơ thấy một ngôi sao Thái Bạch Kim Tinh sáng rực rỡ rơi vào lòng mình, do đó đặt tên là Lý Bạch, tự Thái Bạch. (Chú của ông là Lý Dương Băng cũng ghi lại trong “Đường Lý Hàn lâm Thảo đường tập tự” (Bài tựa tập Thảo đường của Lý Hàn lâm nhà Đường)).

Thái Bạch Kim Tinh chính là sao Trường Canh, sao Khải Minh (sao Mai/sao Hôm), là một vị tinh tú pháp lực quảng đại trên thiên giới, tên là Lý Trường Canh, phụ trách văn hóa giáo dục. Thái Bạch Kim Tinh cũng là một trong những vị thần nổi tiếng nhất trong Đạo giáo, chịu trách nhiệm truyền đạt các mệnh lệnh của Ngọc Hoàng Đại Đế và giám sát thiện ác chốn nhân gian, có ảnh hưởng rất lớn trong dân chúng. “Thiên Quan Chiêm” viết: “Thái Bạch giả, Tây phương kim chi tinh, Bạch Đế chi tử, Thượng công, Đại tướng quân chi tượng dã” (Tạm dịch: Thái Bạch là tinh hoa của kim ở phương Tây, con trai của Bạch Đế, là hình tượng của Thượng công, Đại tướng quân). Thái Bạch Kim Tinh cũng là Thần Chiến tranh, xuất hiện vào thời gian và khu vực đặc biệt, là biểu tượng của “biến thiên” (trời biến đổi), đại diện cho việc đại sự sắp xảy ra. Điều này hoàn toàn tương ứng với hai phương diện Thi Tiên và Kiếm Hiệp của Lý Bạch.

2. Mài chày sắt thành kim (Thiết chử ma châm)

Lý Bạch từ nhỏ đã vô cùng thông minh, nhưng ông cũng ham chơi như mọi đứa trẻ nghịch ngợm khác. Theo “Phương Dư Thắng Lãm – Mi Châu – Ma Châm Khê” ghi lại, có một lần, Lý Bạch đang học ở núi Tượng Nhĩ, Mi Châu, đã trốn học đi chơi. Ông đi qua một con suối nhỏ, thấy một bà lão đang mài một cây chày sắt [1] thô trên đá ven suối. Lý Bạch tò mò hỏi bà đang làm gì, bà lão trả lời: “Mài thành cây kim thêu.” Lý Bạch trợn to mắt ngạc nhiên hỏi: “Thật sự có thể sao?” Bà lão gật đầu: “Chỉ cần công phu sâu!” Lý Bạch vô cùng cảm động, bèn quay về núi chăm chỉ học hành. Câu “Chỉ cần công phu sâu, chày sắt mài thành kim” xuất phát từ câu chuyện này, cũng trở thành câu danh ngôn khích lệ hậu thế kiên trì học tập.

3. Diệu bút sinh hoa (Ngòi bút nở hoa)

Lý Bạch “năm tuổi tụng Lục Giáp [2], mười tuổi xem Bách gia [3], mười lăm xem kỳ thư (sách lạ), làm phú vượt Tương Như [4]”, đồng thời “kiếm thuật tự thông đạt”, thích hành hiệp, thích tung hoành, mến mộ tiên và cầu Đạo. Theo “Khai Nguyên Thiên Bảo di sự” và “Vân Tiên tạp ký” đều ghi lại, khi Lý Thái Bạch còn trẻ, ông mơ thấy đầu cây bút mình dùng nở hoa. Sau này, ông tài hoa xuất chúng [5], danh tiếng vang khắp thiên hạ. Đây chính là điển cố thành ngữ “diệu bút sinh hoa”, ví với tài năng viết lách kiệt xuất. Tương truyền từ đó về sau, những vần thơ hay của Lý Bạch tuôn trào không ngớt.

Chú thích: [1] Chày sắt (thiết chử): Thanh sắt dùng để giã gạo hoặc đập áo. [2] Lục Giáp: Dùng Thiên Can và Địa Chi phối hợp để tính năm tháng ngày (hệ thống Can Chi 60 năm), trong đó Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần được gọi là “Lục Giáp”. Cũng dùng để chỉ sách vỡ lòng cho trẻ em. [3] Bách gia: Sách kinh điển của Chư Tử Bách Gia (Đạo gia, Nho gia, Mặc gia, Pháp gia, v.v.). [4] Tương Như: Tư Mã Tương Như, nhà làm phú lớn thời Tây Hán. Hậu thế gọi ông là “Phú Thánh”. [5] Chiêm dật: Phong phú, tuấn dật. Chữ “Chiêm” (瞻) thông với chữ “Thiệm” (贍). Dật (逸) là phiêu dật.

4. Trích Tiên Nhân (Người tiên bị đày)

Niên hiệu Khai Nguyên thứ 13 (725), Lý Bạch tại Giang Lăng (Kinh Châu, Hồ Bắc) qua người bạn đạo Đan Khâu Sinh đã kết giao với đạo sĩ Thiên Thai Tư Mã Thừa Trinh. Tư Mã Thừa Trinh là đạo sĩ nổi tiếng thời Đường, Huyền Tông từng hỏi ông về Đạo pháp, cho xây dựng Dương Đài Quán cho ông, em gái Huyền Tông là Ngọc Chân công chúa còn bái ông làm thầy. Tư Mã Thừa Trinh vừa thấy Lý Bạch khí vũ hiên ngang đã vô cùng ngưỡng mộ, đọc thơ văn của ông lại càng kinh ngạc không thôi, khen ngợi ông “có tiên phong đạo cốt, có thể cùng thần ngao du khắp tám cõi”. Đây là nhân tài mà mấy chục năm qua ông chưa từng gặp ở trong triều hay ngoài dân gian, nói Lý Bạch có “tiên căn” (gốc tiên).

Năm 735, Lý Bạch đến kinh đô Trường An, gặp nhà thơ, nhà thư pháp nổi tiếng Hạ Tri Chương tại Tử Cực Cung, lập tức tiến lên bái kiến và dâng tập thơ trong tay áo. Hạ Tri Chương vô cùng thán phục bài “Thục Đạo Nan” và “Ô Tê Khúc” của Lý Bạch. Ông hưng phấn cởi túi gấm đựng con rùa vàng đeo bên hông để đổi lấy rượu ngon cùng Lý Bạch uống thỏa thích, cảm khái nói: “Ông không phải người cõi trần, lẽ nào chẳng phải là tinh hoa của sao Thái Bạch sao? Chàng trai, chính là người tiên bị đày xuống trần (Trích Tiên Nhân)!” Từ đó, mọi người đều gọi Lý Bạch là Trích Tiên, Thi Tiên.

Trích Tiên, vốn chỉ trạng thái thần tiên bị giáng xuống trần gian, sau được mở rộng nghĩa để chỉ những nhân vật Đạo gia có tài năng cao siêu, thanh cao thoát tục, có phần thần thông hoặc không học mà tự thông, mang đặc điểm nửa người nửa thần. Tài năng siêu quần “đấu tửu thi bách thiên” (uống một đấu rượu làm trăm bài thơ), “thi thành khấp quỷ thần” (thơ khiến quỷ thần phải khóc) cùng phong thái phiêu dật của Lý Bạch vô cùng tương xứng với nhã hiệu Trích Tiên, và đã được giới văn đàn cũng như xã hội đương thời công nhận.

Hình: Lý Bạch dung mạo tuấn tú, cốt cách thanh kỳ, một vẻ ngoài phiêu nhiên thoát tục. (Miền công cộng)

5. Cũng là Tiên, cũng là Ẩn sĩ, cũng là Phật

Quê hương của Lý Bạch vốn tên là Thanh Liêm hương, sau vì Lý Bạch hiệu là Thanh Liên Cư Sĩ nên đổi thành Thanh Liên hương. Lý Bạch trong “Đáp tộc điệt Tăng Trung Phu tặng Ngọc Tuyền Tiên Nhân Chưởng trà – Tự” (Bài tựa đáp lại cháu trong họ là nhà sư Trung Phu tặng trà Tiên Nhân Chưởng ở Ngọc Tuyền) đã thuật lại thân thế của mình: 

Thanh Liên Cư Sĩ trích tiên nhân,
Quán rượu ẩn danh ba mươi xuân.
Hồ Châu cư sĩ hà tất hỏi,
Kim Túc Như Lai ấy hậu thân.

Thanh Liên (Sen xanh), vốn xuất xứ từ Tây Vực, tiếng Phạn gọi là hoa Ưu Bát La (còn gọi là hoa Ưu Đàm Bà La), xanh trắng rõ ràng, hương thơm thanh khiết, không nhiễm bụi trần. Kinh Phật viết, khi hoa Ưu Bát La nở, “Vạn Vương Chi Vương” Chuyển Luân Thánh Vương sẽ giáng hạ thế gian phổ độ chúng sinh. Tự xưng là Thanh Liên, và nói “Kim Túc Như Lai là hậu thân”, cho thấy mối duyên của ông với nhà Phật, ám chỉ tầng thứ lai lịch của ông. Ngụ ý rằng khi hoa Ưu Bát La nở, Chuyển Luân Thánh Vương sẽ mang chân lý như ý đến thế gian. Lý Bạch ứng mệnh trời hạ phàm, cũng là Tiên, cũng là Ẩn sĩ, cũng là Phật.

Hình tượng Lý Bạch trong “Lịch đại cổ nhân tượng tán”. (Miền công cộng)

6. Ngao du thiên hạ

Năm Khai Nguyên thứ 13 (725), 24 tuổi, Lý Bạch từ biệt cha mẹ rời đất Thục, mang kiếm đi xa, dấu chân ông gần như đi khắp quá nửa Trung Quốc. Theo ghi chép, cả đời Lý Bạch đã đến Tân Cương, Cam Túc, Hồ Bắc… tổng cộng 18 tỉnh, thành phố, khu tự trị, đi qua 206 châu huyện đương thời, leo qua hơn 80 ngọn núi, du ngoạn hơn 60 con sông, 20 hồ đầm. Lý Bạch cả đời yêu non nước trăng sao, viết nên vô số bài thơ sơn thủy hùng hồn bay bổng, tráng lệ tươi sáng. Như “Vọng Thiên Môn Sơn”, “Vọng Lư Sơn bộc bố”, “Độc tọa Kính Đình Sơn”, “Tảo phát Bạch Đế thành”, v.v.

Độ Kinh Môn tống biệt (Qua Kinh Môn tiễn biệt) 

(Tạm dịch: Vượt xa Kinh Môn ngoại, Đến từ nước Sở du. Núi theo đồng bằng hết, Sông vào đại hoang chảy. Trăng dưới trời như gương bay, Mây sinh kết lầu biển. Vẫn thương nước cố hương, Vạn dặm tiễn thuyền đi.)

Độ viễn Kinh Môn ngoại, Lai tòng Sở quốc du.
Sơn tùy bình dã tận, Giang nhập đại hoang lưu.
Nguyệt hạ phi thiên kính, Vân sanh kết hải lâu.
Nhưng liên cố hương thủy, Vạn lí tống hành chu.

Dịch thơ
Vượt xa Kinh Môn ngoại, Đến từ nước Sở du.
Bình nguyên non đã tận, Sông nhỏ nhập đại lưu.
Trăng sáng tựa gương bay, Mây trời thành ảo ảnh.
Tâm hoài cố hương thủy, Vạn dặm tiễn thuyền đi.

“Tảo phát Bạch Đế thành” – Sáng rời thành Bạch Đế 
Triêu từ Bạch Đế thải vân gian,
Thiên lí Giang Lăng nhất nhật hoàn.
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ,
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.

Dịch thơ
Giã từ Bạch Đế trong mây tản,
Ngàn dặm Giang Lăng một ngày về.
Hai bờ vượn khóc âm không đoạn,
Thuyền thời nhẹ lướt vạn trùng san.

7. Vịnh sử hoài cổ

Thơ vịnh sử khi du ngoạn danh lam thắng cảnh, Lý Bạch viết một cách tiết chế và hàm súc, nhưng lại lay động lòng người, ý tứ sâu xa, như “Ô Tê Khúc”, “Việt Trung lãm cổ”.

Việt Trung lãm cổ 
Việt Vương Câu Tiễn phá Ngô quy, 
Nghĩa sĩ hoàn gia tận cẩm y.
Cung nữ như hoa mãn xuân điện,
Chỉ kim duy hữu chá cô phi.

Chú thích: (1) Việt Trung: Chỉ Cối Kê, nơi nước Việt thời Xuân Thu từng đóng đô. Di chỉ nay thuộc thành phố Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. (2) Câu Tiễn phá Ngô: Thời Xuân Thu, hai nước Ngô – Việt tranh bá. Việt Vương Câu Tiễn vào năm 494 TCN bị Ngô Vương Phù Sai đánh bại, trở về nước, nếm mật nằm gai, thề báo thù này. Năm 473 TCN, ông quả nhiên đã diệt nước Ngô. (3) Chá cô là chim đa đa [zhè gū]: Tên loài chim. Hình giống gà mái, đầu như chim cút, ngực có chấm tròn trắng như trân châu, lông lưng có hoa văn lượn sóng màu tím đỏ. Tiếng kêu thê lương, nghe như “hành bất đắc dã ca ca” (đi không được đâu anh ơi).

Bản dịch (nghĩa): Việt Vương Câu Tiễn diệt Ngô khải hoàn, sáu ngàn nghĩa sĩ đều được áo gấm phong quan. Khi xưa cung nữ đầy, lâu đài điện ngọc đẹp như hoa, mà nay nơi đây chỉ có chim đa đa bay trên tường cũ thành hoang.

Hình: Tranh “Lý Bạch Lư Sơn quan bộc đồ” (Lý Bạch ngắm thác Lư Sơn) của Sōami (Nhật Bản, 1485–1525), trục, mực tàu trên giấy, Bảo tàng Nghệ thuật San Francisco, Hoa Kỳ. (Miền công cộng)

8. Kết duyên giao hữu

“Ngũ Nhạc tìm tiên chẳng ngại xa, một đời chỉ thích vào núi non”. Ông tầm tiên cầu Đạo, mây trôi bốn biển, giao du với danh sĩ xã hội, kết duyên bằng hữu. “Tôi muốn say ngủ bạn cứ đi, sáng mai có ý hãy ôm đàn đến” (Tạm dịch từ “Sơn trung dữ u nhân đối chước”). “Nước đầm Đào Hoa sâu ngàn thước, không bằng tình Uông Luân tiễn tôi” (“Tặng Uông Luân”).

Nếu lấy Lý Bạch làm tuyến chính, gần như xâu chuỗi mọi tầng lớp xã hội thời Thịnh Đường, từ hoàng công quý tộc đến người lao động, nông dân.

Tống hữu nhân (Tiễn bạn) 

Thanh sơn hoành bắc quách,
Bạch thủy nhiễu đông thành.
Thử địa nhất vi biệt,
Cô bồng vạn lý chinh.
Phù vân du tử ý,
Lạc nhật cố nhân tình.
Huy thủ tự tư khứ,
Tiêu tiêu ban mã minh.

Dịch thơ
Núi xanh ngang tường bắc,
Nước trắng lượn thành đông.
Nơi một lần ly biệt,
Cỏ bồng vạn lý chinh.
Phù vân như kẻ du,
Lạc nhật tình cố nhân.
Vẫy tay chào tiễn biệt,
Não nề tiếng ngựa minh.

(1) Văn nhân: Mạnh Hạo Nhiên, Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ, Cao Thích, Vương Xương Linh… những trụ cột của thi đàn Thịnh Đường. Như “Tôi gửi tâm sầu trao minh nguyệt, Thẳng hướng trời Tây gió cuốn về.” (Tạm dịch từ “Nghe tin Vương Xương Linh bị giáng chức ở Long Tiêu, gửi từ xa bài này”). “Hồng nhan ruồng bỏ mũ cao sang, tóc bạc nằm yên giữa mây tùng” (Tạm dịch từ “Tặng Mạnh Hạo Nhiên”).

(2) Đạo sĩ: Tư Mã Thừa Trinh, Nguyên Đan Khâu (viết cho ông hơn mười bài thơ), Ngô Quân, Ngọc Chân công chúa… Như “Nguyên Đan Khâu ca”: (Tạm dịch: Nguyên Đan Khâu, yêu thần tiên. Sáng uống dòng trong sông Dĩnh Xuyên, Chiều về khói tía núi Tung Sơn. Ba sáu ngọn núi mãi lượn quanh. Mãi lượn quanh, đạp cầu vồng sao, Thân cưỡi rồng bay tai nổi gió, Ngang sông vượt biển cùng trời thông, Ta biết lòng ông du ngoạn không cùng.)

(3) Tuệ nhãn thức anh hùng: Quách Tử Nghi Khoảng năm Khai Nguyên thứ 23 (735), Lý Bạch du ngoạn Thái Nguyên, gặp Quách Tử Nghi đang bị giam trong xe tù. (Quách Tử Nghi) vì dùng hỏa kế muốn phá địch, chẳng may gió thổi ngược, đốt cháy cả quân lương của mình, nên bị khép tội chờ xử tử. Lý Bạch tuệ nhãn thức anh hùng, lập tức nói giúp với quan trên và đứng ra bảo lãnh cho Quách Tử Nghi. Loạn An Sử bùng nổ, Quách Tử Nghi nhậm chức Sóc Phương Tiết độ sứ, dẫn quân thu phục Lạc Dương, Trường An (hai kinh đô), công lao đứng đầu trong việc dẹp loạn, thanh thế lừng lẫy.

Vĩnh Vương Lý Lân (em trai Đường Túc Tông) dẫn đại quân xuống phía đông, mời Lý Bạch vào phủ làm tham mưu, sau Vĩnh Vương chọc giận Đường Túc Tông và bị giết, Lý Bạch bị liên lụy vào ngục. May nhờ Quách Tử Nghi hết lòng bảo lãnh, mới thoát tội chết, đổi thành đi đày Dạ Lang. Trên đường đi qua Vu Sơn thì gặp lệnh ân xá. Lý Bạch đã bảo vệ cho Đại Đường một nhân tài trụ cột, một danh tướng trung hưng, nên mới có sự báo đáp của Quách Tử Nghi giải quan thoát tội cho Lý Bạch. Hai người gan mật sáng soi, diễn nên một giai thoại ngàn xưa.

9. Hùng tâm tráng chí

“Bàn luận thuật của Quản Trọng, Án Anh, mưu thuật đế vương, dốc hết trí năng, nguyện làm phụ tá, khiến hoàn vũ đại định, hải nội thanh bình.” (Trích “Thay Thọ Sơn đáp Mạnh Thiếu phủ di văn thư”)

Năm Thiên Bảo nguyên niên (742), Đường Huyền Tông triệu Lý Bạch vào kinh, làm Cung phụng Hàn lâm. Một lần, Đường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi ở Trầm Hương Đình ngắm hoa mẫu đơn, lệnh Lý Bạch làm chương nhạc mới (3 bài “Thanh Bình Điệu”), trong đó câu nổi tiếng nhất là: “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung, xuân phong phất hạm lộ hoa nùng” (Tạm dịch: Thấy mây nghĩ đến xiêm y nàng, thấy hoa nghĩ đến dung nhan nàng. Gió xuân thổi qua lan can, sương hoa đẫm ướt). Huyền Tông lúc này không còn là vị vua quyết chí cai trị, mà lười biếng chính sự, hưởng lạc, trọng dụng gian thần. Ông chỉ muốn Lý Bạch viết những tác phẩm tô điểm cho cảnh ca múa thái bình, làm văn nhân ngự dụng. Đối với Lý Bạch, người mang tráng chí cứu đời báo quốc, đây là một sự sỉ nhục. Ông cậy rượu cuồng phóng, chuốc lấy bất mãn, đố kỵ và bị bài xích. Hai năm sau, Lý Bạch từ quan rời đi. Ông đã thấy nguy cơ tiềm ẩn, trong bài “Viễn ly biệt” ông than: “Vua mất bề tôi rồng hóa cá, quyền về tay tôi chuột biến thành hùm.”

10. Nhân cách cao quý

“Thà chết hiên ngang trong bụi cỏ, không cầu sống dưới lồng vàng.” – (Tạm dịch từ “Thiết tịch tà kỹ cổ xuy trĩ tử ban khúc từ”)

“Sao có thể cúi mày gập lưng phụng sự kẻ quyền quý, khiến ta không được mở lòng vui vẻ!” – “Mộng du Thiên Mỗ ngâm lưu biệt”

Hình: Lực Sĩ cởi giày, Quý Phi mài mực. Tranh vẽ vào thế kỷ 17 thời Thanh. (Miền công cộng)

11. Sứ mệnh văn học

“Đại Nhã (lối thơ tao nhã) đã lâu không ai làm, ta suy rồi biết trần thuật cùng ai? Chí của ta là san thuật, để lại ánh huy hoàng chiếu ngàn xuân.” – “Cổ phong kỳ 1”

(1) Sức chấn động: “Hứng lên hạ bút lay Ngũ Nhạc, thơ thành cười ngạo vượt non sông.” – “Giang thượng ngâm”

(2) Vẻ đẹp thanh thuần: “Như hoa sen mọc từ nước trong, vẻ đẹp tự nhiên không cần chạm khắc.” – “Kinh loạn ly hậu thiên ân lưu Dạ Lang ức cựu du thư hoài tặng Giang Hạ Vi Thái thú Lương Tể”.

12. Thơ du hiệp

Thơ du hiệp của Lý Bạch ý khí ngút trời, hào tình vạn trượng, lãng mạn cuồng phóng tột bậc: (Tạm dịch: Khách nước Triệu mũ mão quấn tùy tiện, bảo kiếm nước Ngô sáng như sương tuyết. Yên bạc chiếu ngựa trắng, vun vút như sao băng. Mười bước giết một người, ngàn dặm không lưu dấu. Xong việc phủi áo đi, giấu sâu thân cùng tên. … Dù chết xương hiệp vẫn thơm, không thẹn bậc anh hùng trên đời.) – “Hiệp khách hành”

13. Thơ du tiên

Thơ Lý Bạch phóng túng tự nhiên, phiêu dật tiêu sái, kỳ vĩ tráng lệ, lên trời xuống đất. Những gì thấy được qua tu luyện, cảnh giới thần tiên, giai thoại truyền thuyết, đều được đúc luyện trong thơ ông. Thiên mục của ông đã có thể thấy nhiều cảnh tượng thù thắng (tuyệt diệu) ở các không gian cao tầng khác, và có thể giao tiếp với các vị thần, đi lại giữa các không gian khác nhau. Tựa như ví dụ “ngự gió mà đi”, tự do tiêu dao trong “Trang Tử – Tiêu dao du”.

(Tạm dịch: Ta vốn là kẻ cuồng nước Sở, hát khúc phượng cười Khổng Khâu. Tay cầm gậy ngọc xanh, sáng từ biệt lầu Hoàng Hạc. Ngũ Nhạc tìm tiên chẳng ngại xa, một đời chỉ thích vào núi non.) – “Lư Sơn dao ký Lư Thị ngự Hư Chu”

(Tạm dịch: Ngâm tụng có sở đắc, các thần bảo vệ thân ta. Theo gió lớn mây bay, nhẹ nhàng như cánh mọc.) – “Du Thái Sơn (Kỳ 4)”

(Tạm dịch: Cầu vồng làm áo, gió làm ngựa, Các vị thần trên mây ào ạt hạ xuống. Hổ gảy đàn cầm, loan kéo xe, Tiên nhân xếp hàng dày đặc như gai.) – “Mộng du Thiên Mỗ ngâm lưu biệt”

(Tạm dịch: Tay nõn cầm hoa sen, Bước hư không lên cõi Thái Thanh. Áo cầu vồng kéo dải lụa rộng, Phất phơ bay lên trời.) – “Tây thượng Liên Hoa sơn”

Rất nhiều người xem đây là mơ mộng, lãng mạn của nhà thơ, v.v. Thực ra, như đã nói ở trên, đây chính là sự tu luyện hữu thành của Lý Bạch, được xếp vào hàng tiên, thần du núi Thiên Mỗ, được các thần tiếp đón, là miêu tả chân thực về tiên giới. Lý Bạch mượn giấc mộng du để viết ra những kỳ cảnh này.

(Hình: Tranh “Đối nguyệt đồ” (Cảnh đối ẩm dưới trăng) của họa sĩ đời Minh (truyền thuyết cũ là của Mã Viễn đời Nam Tống), diễn giải ý thơ Lý Bạch. Bảo tàng Cố cung Đài Bắc. (Miền công cộng))

14. Tác phẩm tiêu biểu

Thơ Nhạc Phủ, Thất ngôn ca hành và Ngũ ngôn, Thất ngôn tuyệt cú của Lý Bạch đạt thành tựu cao nhất.

Lý Bạch hội tụ tinh thần sảng khoái, mạnh mẽ của người Thịnh Đường, phẩm cách ngạo nghễ bất khuất, khí độ hùng vĩ, tình hoài siêu phàm thoát tục và khí chất anh hùng “nhậm hiệp” (hành hiệp) vào làm một. Thơ ông “tập không có quyển nhất định, nhà nhà đều có”, là người đứng đầu thi đàn Trung Hoa.

A. Thể loại phóng khoáng

Ông phát triển thể Thất ngôn ca hành trở thành thể thơ tự do phóng khoáng nhất, sảng khoái nhất. Ý tượng thay đổi nhảy vọt, biến ảo khôn lường, phun trào ra, tuôn chảy ngàn dặm, lay động lòng người.

(Tạm dịch: Bạn không thấy, nước Hoàng Hà từ trời xuống, Chảy tuột ra biển không trở lại. Bạn không thấy, gương sáng lầu cao buồn tóc bạc, Sáng như tơ xanh chiều thành tuyết.) – “Tương tiến tửu”

(Tạm dịch: Trời sinh ta ắt có chỗ dùng, Ngàn vàng tiêu hết lại quay về.) – “Tương tiến tửu”

(Tạm dịch: Cùng mang hứng thú bay bổng, chí lớn mạnh mẽ, Muốn lên trời xanh ôm lấy vầng trăng sáng. (Rút dao chém nước càng chảy mạnh, Nâng chén tiêu sầu sầu thêm sầu. Nhân sinh tại thế không như ý, Sớm mai buông tóc mặc thuyền trôi.) – “Tuyên Châu Tạ Diễu lầu tiễn biệt Hiệu thư Thúc Vân”

Hành lộ nan (Đường đi khó) (Tạm dịch: Chén vàng rượu trong giá đấu mười ngàn, Mâm ngọc món ngon đáng vạn tiền. Dừng chén ném đũa không thể ăn, Rút kiếm nhìn quanh lòng mờ mịt. Muốn qua Hoàng Hà băng nghẽn sông, Sắp leo Thái Hành tuyết đầy núi. Lúc rảnh ngồi câu bên bờ suối, Bỗng lại mơ đi thuyền cạnh mặt trời. Đường đi khó, đường đi khó, Nhiều ngã rẽ, nay ở đâu? Sẽ có lúc cưỡi gió dài phá sóng, Treo thẳng buồm mây vượt biển lớn.)

Chú thích:

  1. Trân tu: món ăn quý giá.
  2. Ngồi câu bên suối: Tương truyền Lã Thượng (Khương Tử Nha) khi chưa gặp Chu Văn Vương, từng câu cá bên suối (nay ở đông nam Bảo Kê, Thiểm Tây).
  3. Mơ đi thuyền cạnh mặt trời: Tương truyền Y Doãn trước khi gặp vua Thang, mơ thấy mình đi thuyền qua bên cạnh mặt trời, mặt trăng. Dùng hai điển cố này ý nói cuộc đời gặp gỡ vô thường, phần nhiều là ngẫu nhiên.

B. Thể loại hàm súc

“Trường Can Hành”, “Ngọc Giai Oán”, “Trường Tương Tư”, tinh tế chân thực, sâu lắng dịu dàng, dư âm không dứt.

Ngọc Giai Oán (Oán ở thềm ngọc) (Tạm dịch: Thềm ngọc sinh sương trắng, Đêm khuya thấm ướt vớ lụa. Buông rèm thủy tinh xuống, Long lanh ngóng trăng thu.)

(Tạm dịch: Tóc thiếp vừa che trán, Bẻ hoa trước cửa đùa. Chàng cưỡi ngựa tre đến, Quanh giường múa quả mơ xanh.) – “Trường Can Hành”

(Tạm dịch: Sắc đẹp che lấp kim cổ, Hoa sen thẹn với mặt ngọc.) – “Tây Thi”

(Tạm dịch: Tay nõn vốc sương lam, Áo lụa kéo khói tía.) – “Tống nội tầm Lư Sơn nữ đạo sĩ Lý Đằng Không (nhị thủ)”

(Tạm dịch: Trên có trời xanh thăm thẳm cao, Dưới có sóng nước biếc dạt dào. Trời dài đường xa hồn bay mệt, Mộng hồn không đến ải núi khó. Trường tương tư, nát tâm can.) – “Trường Tương Tư”

Theo Epoch Times