Lời toà soạn: Lịch sử 5.000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Á Đông gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
Tần Thủy Hoàng (259 TCN – 210 TCN), tên thật là Doanh Chính, là Hoàng đế đầu tiên của một Trung Hoa thống nhất, mở ra hơn 2.000 năm thiết chế hoàng gia trên mảnh đất này. Là một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng rất lớn ở Á Đông, danh tiếng của Tần Thủy Hoàng sau mấy nghìn năm đã được cả thế giới thừa nhận. Xung quanh vị Hoàng đế này thực sự có rất nhiều câu chuyện bí ẩn, làm tốn nhiều bút mực của giới chuyên gia. Loạt bài viết này sẽ phần nào giúp độc giả giải khai những nghi vấn về nhân vật đầy huyền thoại này.
Xem thêm: Phần 1
Tần quốc 6 đời dốc sức, quốc phú binh cường
Năm 361 TCN, Tần Hiếu Công kế vị, cầu hiền như khát nước, trong thời gian ngắn, nhân tài trong thiên hạ nườm nượp đi về phía tây. Thừa tướng và các mưu sĩ của nước Tần đa phần là “khách khanh” của lục quốc như: Phạm Tuy, Lã Bất Vi, Lý Tư… Họ tuy không được trọng dụng tại nước của mình nhưng sang Tần lại trở thành danh tướng, thượng khanh.
Thời Chiến Quốc, Tần và Tề là hai nước hùng cường nhất, đông tây đối địch. Quân Tần thực lực mạnh nhất. Các nước khác vì vậy vô cùng bất an, liền hưởng ứng sách lược “Hợp tung” của Tô Tần, liên hợp chống Tần. Tần vì để khắc chế liên hợp các nước, bèn áp dụng mưu “Liên hoành” của Trương Nghi.
Từ năm 318 TCN đến năm 269 TCN, Tần không ngừng mở rộng chiến tranh chinh phạt với cả 6 nước còn lại (Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Sở, Yên). Tần càng ngày càng mạnh, 6 nước tuy nhiều lần hợp tung đánh Tần nhưng đều bất lực trước tiến trình nhất thống giang sơn của nước Tần. Nước Tần trải qua 6 đời quân vương dốc sức phát triển, đến lúc này đã quốc phú dân cường, tạo nền móng vững chắc để Tần Thủy Hoàng cuối cùng nhất thống Trung Hoa.
Thủy Hoàng xuất thế, gây dựng Đại Tần
Tháng giêng năm 259 TCN, Tần Thủy Hoàng ra đời ở Hàm Đan, kinh đô nước Triệu, “khi sinh, đặt tên là Chính, họ Triệu Thị” (Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ). “Đông Chu liệt quốc truyện” miêu tả Tần Thủy Hoàng: Lúc sinh ra, ánh sáng đỏ khắp phòng, trăm loài chim bay liệng. Nhìn đứa bé đó, mũi cao mắt dài, trán vuông đồng tử song trùng, trong miệng có mấy cái răng, cổ sau có một số vẩy rồng, tiếng khóc vang rền, khắp phố đều nghe thấy”.
Trước đó, những lời tiên tri về việc nước Tần sẽ sinh ra hùng chủ nhất thống thiên hạ đã có từ lâu. Vào năm Tần Văn Công thứ 4 (năm 762 TCN), người Tần dựng thành cư trú tại nơi hội tụ của hai con sông Khiên và sông Vị. Một đêm, “Văn Công mộng có con rắn vàng từ trên trời hạ xuống vùng đất của ông, miệng nó dừng lại ở đất Phu Diễn. Văn Công hỏi Sử Đôn, Đôn nói: “Đây là điềm của Thượng Đế, vua nên làm lễ tế”. Thế là lập đàn Phu Trĩ (tế trời đất), dùng tam sinh (lợn, gà, cá) làm đàn Giao Tế (tế trời) tế lễ Bạch Đế. (Sử ký – Phong thiện thư).
Năm Văn Công thứ 19, đắc được “Trần bảo”. “Phong thiện thư” có ghi chép: “Sau 9 năm lập đàn Phu Trĩ, Văn Công lượm được Nhược thạch vân, đặt ở Bản Thành phía bắc Trần Thương để thờ cúng. Thần có năm không đến, cũng có năm thần đến mấy lần, thường đến vào ban đêm, hào quang sáng như sao băng, từ phía đông nam đến đền thờ trong thành thì như tiếng gà trống, âm thanh vang động đến tận mây trời, gà rừng, gà đồng cũng theo đó gáy vang, lấy gia súc làm lễ tế, đặt tên (nhược thạch vân đó) là Trần bảo”.
Theo “Phong thiện thư” chú thích, Nhược thạch vân đó, “chất như đá, như phổi”, mà hình dáng là “gà ngọc” hoặc “gà đá”, do đó Trần Bảo Từ cũng có tên là “Bảo Kê Thần Từ” (Đền thờ Thần gà báu). Ngày nay, thành phố Bảo Kê ở tỉnh Thiểm Tây là tên từ đó mà ra. Người đắc được Trần bảo, thì sẽ có nghiệp bá vương. “Ngoài ra, Tần Mục Công đi săn, lại bắt được con rồng đen, đó chính là điềm lành của thủy đức”, cũng tiết lộ nước Tần ứng với thủy đức thay cho nhà Chu (hỏa) (Sử ký – Phong thiện thư).
Năm Tần Hiến Công thứ 11 (năm 374 TCN), Hiến Công diện kiến Chu Liệt Vương thái tử Đam. Thái tử Đam nói với Hiến Công rằng: “Nhà Chu với nước Tần trước đây hợp rồi lại ly, ly 500 năm rồi lại hợp, hợp 17 năm thì xuất hiện bá vương”. Đó chính là ý nói nước Tần xuất hiện bá vương, người Tần sẽ nhất thống thiên hạ, cũng từ đó mà bí mật lưu truyền qua các đời vua Tần. Ý trời như vậy, sức người chẳng thể đổi thay được. Tần Thủy Hoàng ứng vận mà sinh ra, liền thành tựu nhất thống giang sơn, gây dựng đại nghiệp vĩ đại kinh động trời đất: Hoàng triều đại nhất thống đầu tiên ở Trung Quốc.
Tần Thủy Hoàng sau khi ra đời đã chịu nhiều trắc trở, cuối cùng cũng về được nước Tần. Năm 13 tuổi làm lễ nhược quan làm vua (Xưa nam giới đến tuổi 20 làm quan lễ, lễ kết tóc đội mũ, mới chính thức là người trưởng thành có thể tham gia các việc xã hội, quốc gia. Dưới 20 tuổi làm quan lễ thì gọi là nhược quan, sau đó cũng được phép tham gia vào việc xã hội, quốc gia – ND).
“Năm 13 tuổi, Trang Tương Vương chết, Chính lên thay lập làm Tần Vương. Lúc đó, đất Tần đã thôn tính đất Ba, Thục, Hán Trung, vượt qua đất Uyển, chiếm lĩnh đất Dĩnh, đặt làm Nam Quận. Phía bắc thu phục được Thượng quận trở về đông, gồm có các quận Hà Đông, Thái Nguyên, Thượng Đảng. Phía đông mở rộng đến Huỳnh Dương, diệt hai nhà Chu, đặt làm Tam Xuyên quận. Lã Bất Vi làm tướng quốc, được phong 10 vạn hộ, hiệu là Văn Tín Hầu. Chiêu nạp tân khách du sỹ, muốn thôn tính thiên hạ. Lý Tư làm Xá Nhân. Mông Ngao, Vương Nghĩ, Tiêu Công… làm tướng quân. Vua ít tuổi, khi mới lên ngôi, ủy thác quốc sự cho đại thần” (Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ).
Trong 9 năm trước khi Tần Thủy Hoàng đích thân nhiếp chính, do nhỏ tuổi, các việc quốc sự chủ yếu do tướng quốc Lã Bất Vi chủ trì. Lã Bất Vi tập hợp ngôn luận của bách gia chế tác ra “Lã Thị xuân thu”. Sau khi Tần Thủy Hoàng trưởng thành, bắt đầu đích thân nhiếp chính. Lã Bất Vi do trước đó cấu kết dan díu với Lao Ái, Triệu thái hậu, gây nhiễu loạn hậu cung, cuối cùng sợ tội mà tự sát.
Năm 238 TCN, tại cố đô thành Ung Châu, Tần Thủy Hoàng 22 tuổi, làm lễ đăng quang, chính thức nhiếp chính. “Năm thứ 5, tướng quân Ngao đánh Ngụy, bình định được Toan Táo, Yên, Hư, Trường Bình, Ung Khâu, thành Sơn Dương. Tất cả đều phá được, lấy được 20 thành, đặt ra Đông quận, Đông Lôi. Năm thứ 6, Hàn, Ngụy, Triệu, Vệ, Sở cùng đánh Tần, lấy được Thọ Lăng. Tần xuất quân, 5 nước bãi binh. Phá được Vệ, hãm Đông quận, vua Vệ là Giác dẫn gia quyến dời thành đến ở nhờ Dã Vương, ngăn núi để bảo vệ Hà Nội của Ngụy. Năm thứ 7, sao chổi xuất hiện phương đông, rồi thấy ở phương bắc, tháng 5 thì thấy ở phương tây. Tướng quân Ngao chết. Đang đánh đất Long, Cô, Khánh Đô, liền quay binh đánh đất Cấp. Sao chổi lại xuất hiện ở phương tây 16 ngày. Hạ thái hậu chết. Năm thứ 8, em vua là Trường An Quân, Thành Kiểu đem quân đánh Triệu, sau đó tạo phản, bị giết ở Đồn Lưu, tướng sỹ cũng đều bị giết, dân vùng ấy bị dời sang Lâm Thao” (Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ). Tần Thủy Hoàng năm thứ 10, chỉ sau một năm đích thân nhiếp chính đã đích thân xử lý nổi loạn một cách vô cùng chóng vánh.
Tần Thủy Hoàng tăng tốc công phá 6 nước, không để các nước có cơ hội liên hợp hành động, chiến lược hợp tung đã bị phá hủy hoàn toàn. Chiến lược của ông là “viễn giao cận công”, nước ở xa thì hòa hảo, nước ở gần thì đánh, tập trung sức mạnh, công phá từng nước. Đầu tiên phía bắc đánh chiếm Triệu, miền trung đánh chiếm Ngụy, phía nam đánh chiếm Hàn, sau đó tiến đánh chiếm Yên, Sở, Tề.
Mục tiêu đầu tiên của Tần Thủy Hoàng là nước Triệu. Lúc đó, nước Triệu thực lực mạnh nhất trong 6 nước, là trở ngại lớn nhất trên con đường nhất thống thiên hạ. Triệu có nhiều danh tướng như Lý Mục, Bàng Huyên, quân Tần nhiều lần tấn công nhưng đều bị đẩy lùi. Đồng thời với việc sử dụng quân chủ lực tấn công Triệu, Tần còn áp dụng sách lược cắt xé nước Hàn. Năm 231 TCN, “Giả thú” Đằng (người tạm quyền thay Quận thú) quận Nam Dương nước Hàn đã dâng địa hạt của mình cho Tần. Đằng được Tần Thủy Hoàng bổ nhiệm là Nội sử, sau đó lại phái ông ta dẫn quân đánh nước Hàn. Năm Tần Thủy Hoàng thứ 17 (năm 230 TCN), bắt sống quốc vương Hàn Vương An, nước Hàn diệt vong.
Năm Tần Thủy Hoàng thứ 18 (năm 229 TCN), phái đại tướng Vương Tiễn dẫn quân đánh Triệu. Nước Triệu phái Lý Mục, Tư Mã Thượng dẫn quân chống đỡ, hai bên giằng co gần 1 năm. Sau đó Triệu Vương nghe theo lời gièm pha, phái người thay Lý Mục và xử tử Lý Mục, đồng thời giết cả Tư Mã Thượng. Từ đó về sau, quân Tần như đi vào chỗ không người.
Năm Tần Thủy Hoàng thứ 19 (năm 228 TCN), quân Tần công phá Hàm Đan. Triệu Vương dâng bản đồ nước Triệu đầu hàng Tần. Nhưng công tử Gia lại chạy trốn đến quận Đại (huyện Úy – Hà Bắc ngày nay), lợi dụng uy danh Lý Mục thu phục nhân tâm đất Đại, tự lập làm vua. Vào năm Tần Thủy Hoàng thứ 25 (năm 222 TCN), sau khi quân Tần tiêu diệt nước Yên, đã bắt Gia làm tù binh. Từ đó nước Tần đã thống nhất được miền bắc.
Năm Tần Thủy Hoàng thứ 16 (năm 231 TCN), Ngụy Cảnh Mẫn vương chịu sức ép dưới uy lực lớn mạnh của nước Tần, đã chủ động dâng tiến Lệ Ấp, cầu xin hoãn binh. Lúc đó, Tần Thủy Hoàng đang bận diệt Triệu, không rảnh phân tán binh lực, liền đồng ý nhận đất dâng tiến. Do đó nước Ngụy kéo dài tàn hơi thêm được vài năm.
Năm Tần Thủy Hoàng thứ 22 (năm 225 TCN), quân Tần chủ động xuống phía nam đánh Sở. Tần Thủy Hoàng lại phái Vương Bôn dẫn quân vây đánh Đại Lương kinh đô nước Ngụy (nay là Khai Phong – Hà Bắc). Quân Ngụy giữ chặt cổng thành, cố thủ không ra. Quân Tần cố đánh không hạ được thành. Lúc đó, nước Tề án binh bất động, nước Ngụy cô lập không có cứu viện. Vương Bôn thấy mưa to liền mấy ngày, nước hai con sông Hoàng Hà, Biện Hà có thể dùng để công thành. Bôn lập tức lệnh quân sỹ đào kênh dẫn nước hai con sông về, xả vào Đại Lương. Thành lũy Đại Lương bị ngâm nước đổ sập hoàn toàn, Ngụy Vương đành phải đầu hàng. Nước Ngụy diệt vong từ đó.
Nước Sở ở miền nam, cương vực rộng lớn, của cải dồi dào, tự xưng có trăm vạn giáp sĩ. Nhưng Sở nội loạn không ngừng, quân vương đại thần tranh quyền đoạt lợi, khuynh loát lẫn nhau. Năm Tần Thủy Hoàng thứ 19 (năm 228 TCN), Sở U Vương chết. Em cùng mẹ của U Vương là Do lên ngôi là Ai Vương, nhưng tại vị chỉ được 2 tháng, bị người anh khác mẹ là Phụ Sô sát hại. Phụ Sô lên ngôi Sở Vương. Năm thứ 3 Phụ Sô tại vị, tức năm Thần Thủy Hoàng thứ 21 (năm 226 TCN), Tần Thủy Hoàng nghe theo lời của viên tướng trẻ Lý Tín, phái 20 vạn quân do Lý Tín dẫn đầu xuống phía Nam đánh Sở.
Lý Tín kiêu ngạo tự phụ, bị Hạng Yên, Khuất Định của quân Sở đánh bại. Lúc đó Tần Thủy Hoàng xuất giá đến gặp lão tướng Vương Tiễn, cuối cùng đã thuyết phục được Vương Tiễn dẫn 60 vạn quân Tần đánh Sở. Sau khi Vương Tiễn tiến vào đất Sở, áp dụng chiến lược đóng quân luyện võ, đắp thành lũy vững chắc không xuất quân, làm quân địch khinh suất, dĩ dật đãi lao, sỹ khí cao ngút, thể lực sung mãn, tất cả đều muốn quyết trận sống mái với quân Sở.
Trong khi đó, quân Sở của Hạng Yên sĩ khí trễ nải, cho rằng quân Tần sợ không dám đánh, Vương Tiễn quá già rồi, chỉ muốn tự giữ mình. Hơn nữa quân Sở lương thảo không đủ, chuẩn bị rút về phía đông. Vương Tiễn liền hạ lệnh toàn quân xuất kích. Quân Tần dũng mãnh tranh nhau xông lên, liên tiếp đánh liên tiếp thắng, một trận mà đánh tan quân chủ lực của Sở, xông thẳng tiến nhanh, giết nguyên soái Hạng Yên, bắt sống Sở vương Phụ Sô và cả Sở vương mới lập. Từ đây, nước Sở diệt vong, lúc đó là năm Tần Thủy Hoàng thứ 24 (năm 223 TCN).
Khi đại binh Vương Tiễn đến Tích Sơn (Vô Tích ngày nay), lúc bắc bếp nấu cơm, đào được một cái bia cổ, trên bia có viết: “Hữu Tích binh, thiên hạ tranh, Vô Tích ninh, thiên hạ thanh” (Khi núi Tích Sơn có thiếc thì có chiến tranh, thiên hạ tranh giành, khi Vô Tích (hết thiếc) thì sẽ yên ổn, thiên hạ thái bình). Hỏi người địa phương được biết, núi này bắt đầu từ thời Chu Thành Vương khai thác chì, thiếc (Diên tích) nên có tên là Tích Sơn. Nhưng gần đây sản lượng khai thác ngày một ít, cũng không biết bia này do ai làm. Vương Tiễn than rằng: “Bia này xuất hiện, thiên hạ từ nay sẽ dần yên ổn. Chẳng phải cổ nhân đã nhìn ra số đã định, do đó chôn bia này để cho người đời sau được biết hay sao?”. Tên huyện Vô Tích ngày nay, thực ra bắt nguồn từ đó. Nước Tần nhất thống thiên hạ, đã là thiên định từ trước rồi.
Trong khi diệt Triệu, quân Tần đã tiến đến biên giới nước Yên. Vua nước Yên là Hỷ kinh hãi tột độ, chẳng ngày nào yên. Thái tử nước Yên là Đan được Điền Quang tiến cử, cử Kinh Kha mạo hiểm hành thích Tần vương, chính là tích Kinh Kha thích Tần vương trong lịch sử, lúc đó vào năm Tần Thủy Hoàng thứ 20 (năm 227 TCN). Vụ hành thích thất bại.
Năm Tần Thủy Hoàng thứ 22 (năm 226 TCN), Tần Thủy Hoàng lệnh cho cha con Vương Tiễn, Vương Bôn dẫn quân đánh Kế, kinh đô nước Yên (Bắc Kinh ngày nay). Yên vương Hỷ và Thái tử Đan chạy trốn lưu vong ở quận Liêu Đông. Tướng Tần Lý Tín dẫn vài nghìn quân Tần truy đuổi Thái tử Đan đến sông Diễn Thủy. Thái tử Đan lặn trốn dưới nước nên may mắn thoát chết. Sau đó Yên vương Hỷ phái người đi giết chết Thái tử Đan, đem thủ cấp dâng lên Tần, muốn lấy đó mà xin dừng chiến, giữ nước Yên khỏi bị diệt vong.
Sau khi Yên vương Hỷ chạy trốn đến Liêu Đông, quân chủ lực của Tần được điều xuống chiến tuyến phía Nam tấn công nước Sở. Năm Tần Thủy Hoàng thứ 25 (năm 222 TCN), Vương Bôn phụng mệnh chinh phạt thế lực tàn dư của nước Yên ở Liêu Đông, bắt sống Yên vương Hỷ, nước Yên đã hoàn toàn diệt vong. Cũng trong năm đó, đại quân vừa mới diệt xong Sở ở phương nam, thừa thắng hàng phục được vua Việt, lập thành quận Cối Kê. Toàn bộ lưu vực sông Trường Giang đã được sáp nhập vào bản đồ nước Tần.
Năm Thủy Hoàng Đế thứ 26 (năm 221 TCN), Tần Thủy Hoàng lệnh cho Vương Bôn đem quân đánh xuống phía nam, đánh nước cuối cùng trong 6 nước là Tề. Từ thời Xuân Thu đến giữa thời Chiến Quốc, Tề là nước rất mạnh trong các chư hầu vùng Sơn Đông. Nhưng năm 284 TCN, 5 nước Yên, Triệu, Hàn, Ngụy và Sở đánh Tề, nhất là tướng nước Yên Nhạc Nghị càn quét nước Tề, làm nước Tề suýt nữa bị diệt vong. Từ đó, nước Tề không thể hồi phục lại sức mạnh trở lại được nữa. Lúc này, Tề vương Kiến là kẻ bất tài. Vương Bôn xuống phía nam đánh Tề, thế như chẻ tre, đánh thẳng tiến sâu, đến tận Lâm Tri. Tề vương Kiến và vương hậu Thắng lập tức chưa đánh mà hàng quân Tần, nước Tề bị diệt vong. Tới đây, nước Tần đã đi hết hành trình cuối cùng trên con đường dẹp yên quần hùng, thống nhất 6 nước.
Trong nhiều năm chinh chiến, hàng phục 6 nước, hoàn thành bá nghiệp thống nhất, chưa từng thấy ghi chép về việc Tần Thủy Hoàng chôn lính địch, chém giết dân trong thành, thực sự là một trong những bậc quân vương nhân từ nhất lịch sử các triều đại Trung Hoa. Lịch sử đời sau, văn nhân thường miêu tả Tần Thủy Hoàng quét sạch 6 nước là “tàn bạo”. Một số con cháu của vua 6 nước, ôm nỗi hận mất nước, không nhớ cái ơn Tần Thủy Hoàng đã giữ cho mạng sống, trái lại chụp cái mũ “tàn bạo” lên Tần Thủy Hoàng. Đó không phải là Tần Thủy Hoàng chân thực. Nếu Tần Thủy Hoàng thực sự “tàn bạo” như vậy, con cháu của vua 6 nước e rằng đã bị giết sạch rồi.
Từ năm 22 tuổi đích thân nhiếp chính, đến năm 39 tuổi xuất quân đánh bại nước Tề ở Sơn Đông, rồi hoàn thành đại nghiệp lịch sử thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng trong 17 năm ngắn ngủi đã mau chóng kết thúc cục diện các chư hầu hỗn loạn thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc dài mấy trăm năm. Ông lại không để lỡ thời cơ, lập tức ban bố một loạt các pháp lệnh và biện pháp có lợi cho thống nhất, xây dựng và hoàn thiện một hoàng triều đại nhất thống đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Khí phách này, các đế vương bình thường chẳng thể nào sánh nổi. Bằng phách lực, đảm lược tiền nhân chưa từng có, mạnh mẽ và quyết đoán, đúng lúc ứng với thiên thời, thuận theo nhân tâm, để người đời lại được hưởng yên bình.
Chỉ dùng người hiền tài, sống có trước có sau
Tần Thủy Hoàng dũng cảm khai phá, quang minh chính đại, cả đời vô cùng coi trọng sử dụng nhân tài. Tầm nhìn và khí độ, lòng dạ dùng người của ông đều chẳng phải tầm thường. Hơn nữa, khi đã dùng thì hoàn toàn tín nhiệm, có trước có sau, lòng chân thành khoan dung của ông đối với mọi người vượt xa bậc đế vương thông thường.
Năm Tần Thủy Hoàng thứ 10 (năm 237 TCN), người phụ trách xây dựng công trình thủy lợi của nước Hàn là Trịnh Quốc thọ mệnh vua Hàn, giả danh hỗ trợ xây dựng kênh mương thủy lợi để làm Tần mệt mỏi, sau bị bại lộ. Các đại thần tông thất nhà Tần thừa cơ đề nghị Tần Thủy Hoàng trục xuất tất các các “khách khanh” của các nước chư hầu đang mưu sự ở Tần. Tần Thủy Hoàng liền ban bố “lệnh trục xuất”, ra lệnh tất cả những người nhậm chức “khách khanh” ở Tần buộc phải rời khỏi trong khoảng thời gian quy định.
Lý Tư trên đường rời khỏi nước Tần đã viết cho Tần Thủy Hoàng “Thư can gián đuổi khách”, nêu rõ những cống hiến của các “khách khanh” đã làm cho Tần, tầm quan trọng của lưu giữ sử dụng “khách khanh” và thiệt hại của việc đuổi khách. Tần Thủy Hoàng xem xong, lập tức thu hồi “lệnh đuổi khách”, mời các khách khanh bị đuổi trở lại Tần phục chức. Không lâu sau còn thăng Lý Tư làm Đình úy. Với sự khuyên can của Lý Tư và Trịnh Quốc, Tần Thủy Hoàng cân nhắc lợi hại, đã quyết đoán tiếp thu ý kiến của họ, miễn tội cho Trịnh Quốc, kẻ chủ mưu làm nước Tần mệt mỏi, đồng thời để cho ông ta tiếp tục chủ trì công việc đào kênh Trịnh Quốc Cừ. Trải qua 10 năm, ông cuối cùng cũng đã hoàn thành công trình thủy lợi lớn thứ 2 nước Tần – kênh đào Trịnh Quốc Cừ.
Đạo dùng người của Tần Thủy Hoàng là chỉ dùng người hiền tài, không phân biệt xuất xứ, quê quán. Để có được Úy Liễu, nhà quân sự mưu lược nổi tiếng lúc đó đang làm tướng quân nước Ngụy, Tần Thủy Hoàng đã phái Lý Tư mạo hiểm thâm nhập nước Ngụy thuyết phục. Cuối cùng cũng đã thuyết phục được Úy Liễu đến Tần, trở thành một trong những mưu sĩ chính của ông trong cuộc chinh phạt 6 nước. Có người đem bộ sách của công tử Hàn Phi của nước Hàn truyền vào Tần. Khi Tần Thủy Hoàng xem được các sách “Cô phẫn”, “Ngũ nang” của Hàn Phi, ông không chỉ khen ngợi mà còn than rằng: “Chao ôi! Quả nhân mà có được người này, cùng ngao du thì chết cũng không ân hận!” Sau đó, Tần Thủy Hoàng nghĩ mọi cách để đón Hàn Phi đến Tần.
Trong cuộc chiến diệt Sở, Tần Thủy Hoàng đích thân đi mời đại tướng quân Vương Tiễn đang cáo bệnh ở nhà xuất sơn, cuối cùng đã làm Vương Tiễn cảm động, nhận lời làm Đại nguyên soái chinh phạt Sở, sau Sở phải chịu diệt.
Viên quan nhỏ Trình Mạc do phạm pháp bị giam trong tù, đã nghiên cứu cải cách văn tự, đem chữ Tiểu triện tròn mà Lý Tư sáng chế ra sửa thành chữ vuông, cắt bỏ rườm rà, giản hóa. Trải qua 10 năm nỗ lực, cuối cùng đã thành công chế ra một thể chữ mới, tức Lệ thư. Sau này có người đem những chữ này dâng lên, Tần Thủy Hoàng nhìn thấy, nhận thấy rất thực dụng, liền đặc xá và sử dụng Trình Mạc, cho ông làm quan ở Ngự sử tự.
Xung quanh Tần Thủy Hoàng tập hợp một loạt các “khách khanh” rất có tài năng, trong đó bao gồm: Thừa tướng Lý Tư (đến từ nước Sở), nhà quân sự Úy Liễu (đến từ nước Ngụy), tướng quân Triệu Đà (đến từ nước Triệu), thượng khanh Cam La (cháu của tướng nước Tần Cam Mậu, Cam Mậu đến từ nước Tề), tướng quân Mông Vũ và con trai là tướng quân Mông Điềm, anh em Mông Nghị (Mông Vũ là con trai của lão tướng Mông Ngao nước Tần, Mông Ngao đến từ nước Tề), chuyên gia thủy lợi Trịnh Quốc (đến từ nước Hàn), nhà lý luận quyền mưu của bậc đế vương Hàn Phi (đến từ nước Hàn), khách khanh Mao Tiêu (đến từ nước Tề)… Các “khách khanh” này đều là những trọng thần sau này giúp Tần Thủy Hoàng mở rộng giang sơn, quản lý triều chính.
Tần Thủy Hoàng cực kỳ tôn trọng nhân tài, đối nhân xử thế biết co biết duỗi, hòa hợp nhân tình thế thái, gần với đạo lý thế gian. Để có được Úy Liễu, Tần Thủy Hoàng sẵn sàng bỏ thân phận tôn quý của bậc đế vương “đối xử bình đẳng với Úy Liễu”, “y phục ăn uống giống nhau” (Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ). Tuy nhiên Úy Liễu lại nhiều lần có ý phê phán đối với Tần Thủy Hoàng, Tần Thủy Hoàng nghe mà chẳng để tâm, vẫn tiếp tục yên tâm trọng dụng.
Trịnh Quốc tuy là gian tế của nước đối địch, Tần Thủy Hoàng không những không giết, trái lại còn trọng dụng, để ông ta chủ trì hoàn thành công trình thủy lợi nổi tiếng là kênh đào “Trịnh Quốc Cừ”, đẩy mạnh thực lực kinh tế của nước Tần. Khi Kinh Kha hành thích vua Tần, trợ thủ là Cao Tiệm Ly sau khi Kinh Kha hành thích thất bại đã sống lưu vong trong dân gian. Tần Thủy Hoàng tiếc tài năng âm nhạc của ông ta nên đã “đại ân xá”, bổ nhiệm ông ta làm nhạc sư cung đình.
Đặc điểm lớn nhất dùng người của Tần Thủy Hoàng là buông tay, dùng người thì không nghi ngờ, không can thiệp, cho các quan tướng thuộc hạ quyền tự chủ cực lớn. Ông giao đại quân 20 vạn cho Lý Tín, đại quân 60 vạn cho Vương Tiễn, đại quân 30 vạn cho Mông Điềm, không đặt ra bất kỳ chướng ngại nào để hạn chế quyền lực của họ. Lý Tín tuổi trẻ hăng máu, dẫn đại quân 20 vạn đánh Sở, bị Sở đánh bại. Nhưng Tần Thủy Hoàng không truy cứu trách nhiệm, mà vẫn tiếp tục tín nhiệm ông ta, để ông ta cùng Vương Bôn đánh Yên, cuối cùng Lý Tín lập công chuộc tội, bắt sống vua Yên.
Sau khi thống nhất toàn quốc, Tần Thủy Hoàng tiếp tục trọng dụng các công thần, tướng cũ như Lý Tư, Vương Tiễn, Mông Điềm… đều có trước có sau, quan hệ khá thân mật hòa hợp. Tần Thủy Hoàng và Lý Tư nghĩa quân thần 30 năm, có thủy có chung, là mẫu mực nhất của nghĩa quân thần vậy.
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Nam Phương biên dịch
Xem thêm:
- Tần Thủy Hoàng xây đường cao tốc 50 làn xe chạy từ hơn 2.000 năm trước khiến cả thế giới kinh ngạc
- Lưu danh thiên cổ, người Việt duy nhất được vua Tần Thuỷ Hoàng đúc tượng là ai?
- Vạn Lý Trường Thành không phải là bức tường phòng thủ lớn nhất ở Trung Quốc