Tác giả: Liễu Địch
“Tiềm long ẩn tích Liêu Đông quận, danh sĩ phong lưu lệ băng tuyết” – Giai điệu cổ xưa của khúc “Lương Phụ Ngâm” vang vọng giữa núi rừng và mái tranh. Vị Gia Cát tiên sinh tự hiệu là “Ngọa Long” ngâm nga khúc ca cổ hào hùng, cày ruộng tại Nam Dương, chờ thời mà hành động. Khi hoàng thúc Lưu Bị ba lần đến lều tranh, trong cuộc “Long Trung đối”, vị trí giả áo vải cuối cùng đã gặp được minh chủ. Từ đó, ông bay vút lên trời cao, lấy việc khôi phục nhà Hán làm sứ mệnh, tạo nên một sự nghiệp bi tráng đáng ca ngợi. Mà ở Liêu Đông, phía bắc của Nam Dương, còn có một “tiềm long” (rồng ẩn mình) khác, cả đời ở nơi thôn dã không ra làm quan, nhiều lần từ chối lời mời của vua Ngụy, chí nguyện ở việc giáo hóa một phương, tu dưỡng thiện đức.
Hai người này chính là những tấm gương chính khí được nhắc đến trong “Chính Khí Ca”: “Hoặc vi Liêu Đông mạo, thanh tháo lệ băng tuyết. Hoặc vi Xuất Sư biểu, quỷ thần khấp tráng liệt.” (Tạm dịch: Hoặc là chiếc mũ Liêu Đông, tiết tháo trong sạch hơn cả băng tuyết. Hoặc là bài “Xuất Sư Biểu”, khiến quỷ thần cũng phải khóc thương cho sự tráng liệt). Rồng bay trên trời (phi long), Gia Cát Lượng với “một bài Xuất Sư Biểu đã lưu danh thiên hạ”, tấm lòng chính khí mênh mông phò nguy cứu đời của ông còn vút tận trời xanh, ngàn năm sau không ai sánh kịp. Còn vị tiềm long ít người biết đến ở Liêu Đông kia, cũng dùng một cách độc đáo để giữ gìn lòng trung nghĩa với cựu chủ nhà Hán, tu dưỡng chính khí chí cương chí đại.
Đào lê không nói, dưới gốc tự thành đường
Vị tiềm long này tên là Quản Ninh, là một cao sĩ nổi danh ngang với Hoa Hâm và Bỉnh Nguyên, ba người được gọi chung là “nhất long”. Vì Hoa Hâm danh tiếng lớn nhất nên được gọi là “long thủ” (đầu rồng), Bỉnh Nguyên là “long phúc” (bụng rồng), còn Quản Ninh là “long vĩ” (đuôi rồng). Nhưng nếu xét về tu dưỡng cá nhân, ngay từ thời niên thiếu, Quản Ninh đã thể hiện phẩm chất đạm bạc hơn người. “Thế Thuyết Tân Ngữ” chép rằng, khi Quản Ninh và Hoa Hâm cùng đi học, có lần họ cuốc đất trong vườn và phát hiện một thỏi vàng. Quản Ninh không hề liếc mắt, vẫn tiếp tục công việc như thường, còn Hoa Hâm thì nhặt thỏi vàng lên ngắm nghía một lúc lâu rồi mới vứt đi. Lại một lần khác, hai người ngồi cùng chiếu đọc sách, có một vị quan lớn giàu sang ngồi xe sang trọng đi qua. Quản Ninh vẫn đọc sách như cũ, còn Hoa Hâm thì bỏ sách chạy ra xem. Sau khi Hoa Hâm quay lại, Quản Ninh cắt đôi chiếc chiếu, ngồi riêng ra và nói: “Anh không phải là bạn của tôi nữa!” Đây chính là điển cố “Quản Ninh cắt chiếu” nổi tiếng đời sau. Quả nhiên, Hoa Hâm sau này lần lượt làm Lang trung, Thái thú, đến thời Tào Ngụy thì được phong hầu bái tướng, cả đời đam mê con đường hoạn lộ.

Con đường xử thế của Quản Ninh thì ngược lại. Giữa lúc thiên hạ loạn lạc, ông lại tìm đến phương bắc ẩn cư, tránh xa những tranh chấp về danh lợi và chiến sự. Thái thú Công Tôn Độ tự phong làm vua Liêu Đông, tuy tàn bạo vô độ nhưng nhờ chí tiến thủ và dày công cai quản, đã khiến Liêu Đông trở thành một nơi yên ổn giữa thời loạn, danh tiếng vang xa hải ngoại. Vì vậy, một nhóm danh sĩ như Quản Ninh đã chọn nơi này để lánh nạn. Công Tôn Độ đầy tham vọng nghe tin bậc quân tử từ phương nam đến, liền cung kính dọn sẵn chỗ ngồi, lễ phép tiếp đãi, với ý muốn thu dụng. Nhưng khi Quản Ninh gặp mặt, lời ông nói ra đều luận về kinh điển, không bàn chuyện thế sự, cắt đứt ý định chiêu mộ của Công Tôn Độ. Sau đó, ông dựng lều trong thung lũng, bề ngoài sống cuộc đời của mây hoang hạc nội, nhưng thực chất niềm tin trung thành với nhà Hán chưa bao giờ phai nhạt. Người đương thời lánh nạn đa phần ở phía nam Liêu Đông, duy chỉ có ông chọn ở phía bắc, để tỏ rõ ý không muốn di cư cầu an.
Khổng Tử nói: “Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành” (Tự thân ngay thẳng thì không cần ra lệnh người khác cũng làm theo). Quản Ninh lặng lẽ không lời, nhưng phẩm chất trung trinh của ông đã cảm hóa mọi người, ngày càng có nhiều người tha hương theo ông chuyển đến quận phía bắc. Chỉ một tháng sau, khu vực xung quanh nơi ông ẩn cư đã phát triển thành một thị trấn sầm uất. Quản Ninh thấy chính khí trong lòng người chưa mất, bèn mở lớp giảng dạy, truyền đạo thụ nghiệp cho người dân quận bắc, giảng giải Tứ Thư Ngũ Kinh, các quy phạm lễ nghi của văn hóa Nho gia. Từ đó, cả quận Liêu Đông, bên ngoài không bị chiến hỏa xâm phạm, bên trong có thánh đức giáo hóa, trở thành một cõi tịnh độ thiên đường hiếm có giữa thời loạn. Người dân Liêu Đông dưới sự giáo hóa tận tình của Quản Ninh, kẻ mạnh không ức hiếp kẻ yếu, đa số không bắt nạt thiểu số, khiến phong thái mộc mạc của thời đại Đường Nghiêu, Ngu Thuấn lại hiện về. Hóa ra, lòng người ai cũng ẩn chứa thiện niệm và chính tính, lời nói và hành động chính trực của người quân tử chính là liều thuốc hay khai sáng tâm trí, có thể khiến người đời thấy người hiền mà noi theo, trở về với sự thuần phác.
Nhiều lần bị triệu mời không nhận, chỉ chuyên tâm tu dưỡng bản thân
Khi ẩn cư tại Liêu Đông, người bạn tốt của ông là Bỉnh Nguyên tính tình cương trực, thường bình luận thế cuộc, lời lẽ quyết liệt, bị thuộc hạ của Công Tôn Độ vô cùng ganh ghét. Quản Ninh đã khổ tâm khuyên bạn: “Tiềm long dĩ bất kiến thành đức, ngôn phi kỳ thời, giai chiêu họa chi đạo dã.” (Rồng ẩn mình nhờ không thể hiện mà thành tựu đức hạnh, lời nói không đúng thời điểm đều là con đường rước họa vào thân). Ông còn khuyên bạn bí mật trở về quê hương, rời xa vùng đất thị phi này. “Kinh Dịch” có câu: “Tiềm long vật dụng, dương tại hạ dã” (Rồng ẩn chớ dùng, vì dương khí còn ở dưới thấp). Quản Ninh trông như ẩn cư lánh đời, nhưng thực ra trong lòng vẫn ôm giữ thiên hạ. Lúc này nhà Hán suy vi, ba nước tranh hùng, Liêu Đông lại bị cát cứ, lời nói của Bỉnh Nguyên dù có thể chỉ trích đúng tệ nạn đương thời, nhưng không có tác dụng thực tế đối với tình hình nguy nan của thiên hạ, ngược lại còn gây họa cho bản thân. Theo Quản Ninh, vì sự phẫn nộ nhất thời mà rước lấy tai bay vạ gió không phải là cách làm của người lý trí. Khi người quân tử không thể làm gì, nên giống như rồng ẩn mình mà che giấu tài năng, chờ đợi thời cơ. Cam tâm nhẫn nhịn một thời, tu dưỡng tiết tháo của bản thân, mới có thể bảo toàn thực lực, tích lũy sức mạnh, mới có khả năng đem tài học của mình ra giúp đời.
Do đó, mấy đời vua Ngụy xuống chiếu mời Quản Ninh ra làm quan, ông đều từ chối không nhận, một lòng dạy học. Để thể hiện chí hướng không màng hoạn lộ, dù là bốn mùa nóng lạnh, Quản Ninh quanh năm chỉ mặc quần áo vải bố đơn sơ nhất, đầu đội một chiếc mũ cao màu đen. Tên gọi “Liêu Đông mạo” (mũ Liêu Đông) cũng từ đó mà ra, trở thành biểu tượng cho sự thanh bần liêm khiết của Quản Ninh. Phạm Trọng Yêm từng nói: “Ở trên cao trong miếu đường thì lo cho vua, ở xa nơi sông hồ thì lo cho dân.” Cả cuộc đời này, Quản Ninh không có duyên gặp được minh chủ để giúp người kiến tạo một đời thịnh thế, nên ông đã dâng trọn tấm lòng trung thành với nhà Hán cho những di dân của Đại Hán. Khi tinh thần chính thống mà các bậc thánh hiền tôn sùng như “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” thực sự hòa vào xương máu của người dân Liêu Đông, thì hoài bão trung quân ái quốc và đại nghĩa trung trinh không đổi của Quản Ninh đã được thực hiện theo một cách rất riêng.
Bao nhiêu chuyện hưng vong trong ngàn năm xưa, là sân khấu của khói lửa và trí mưu tranh bá, càng là nhân quả của thiên mệnh và sự lựa chọn của con người. Trong giai đoạn lịch sử tam quốc phân tranh này, đã xuất hiện vô số nhân vật anh hùng chính nghĩa, nam chinh bắc chiến, anh tư hiên ngang. Tuy nhiên, trên đời vẫn còn một nhóm người đặc biệt, họ lạnh lùng quan sát, không dính bụi trần, trong phạm vi năng lực của mình, làm những việc thiện hữu ích nhất cho quốc gia. Từ xưa, nhà Nho đã theo đuổi lý tưởng “đạt tắc kiêm tế thiên hạ, cùng tắc độc thiện kỳ thân” (khi đắc thời thì ra giúp đời, khi thất thế thì tu dưỡng bản thân). Quản Ninh không màng vinh hoa lợi lộc, chỉ vì sinh không gặp thời, nên đã lui về tu thân. Trải nghiệm của ông sao mà giống với Gia Cát Lượng thuở đầu còn ẩn mình ở Nam Dương. Có lẽ trong những ngày tháng ẩn cư, Quản Ninh cũng đang chờ đợi một minh chủ, chọn cây lành mà đậu. Tuy nhiên, ông không thần phục hai chúa Ngụy, Ngô, lại không có duyên gặp được Lưu Bị của nhà Hán, dù có một thân tài hoa cũng không có đất dụng võ. Xưa kia Nhan Hồi ẩn mình trong con ngõ nhỏ, một giỏ cơm, một bầu nước, người khác không chịu nổi cảnh cơ hàn ấy, nhưng ông vẫn không thay đổi niềm vui của mình, được Khổng Tử khen là bậc “hiền”. Vì vậy, Quản Ninh cũng học theo người xưa, chọn làm một con rồng ẩn mình nơi góc biển suốt đời. Bề ngoài trông như vô dụng với thiên hạ, nhưng thực chất đã dựng nên một tấm gương về một bậc cao sĩ có tiết tháo trong sạch.
Thường làm việc thiện nhỏ, dùng chính khí dưỡng sinh

Thế sự bao phen thăng trầm, thế chân vạc tam quốc hình thành, vua Liêu Đông cũng từ Công Tôn Độ truyền đến Công Tôn Cung, thời thế dần ổn định. Những người khách tha hương lần lượt trở về quê nhà, duy chỉ có Quản Ninh vẫn thanh tịnh giữ mình, an cư tại Liêu Đông, ở lại suốt ba mươi bảy năm. Ba mươi bảy năm thanh xuân, thoáng chốc đã qua, Quản Ninh cũng từ một thư sinh trẻ tuổi trở thành một ông lão tóc đã hoa râm. Những năm Hoàng Sơ, ông thấy Công Tôn Cung nhu nhược vô năng, cháu là Công Tôn Uyên thì như hổ rình mồi, e rằng Liêu Đông sẽ có biến cố, bèn dong thuyền vượt biển, trở về quê cũ. Quả nhiên không ngoài dự đoán, Công Tôn Uyên cướp ngôi xưng vương, phản Ngụy liên Ngô, tiếc là công bại thành hư, liên lụy khiến hàng vạn người Liêu Đông phải chết, cảnh tượng bi thương khắp nơi.
Thuyền đi đường xa, bỗng gặp gió biển dữ dội, chiếc thuyền đi cùng không may bị chìm. Hành khách thấy vậy vô cùng hoảng sợ, duy chỉ có Quản Ninh xem nhẹ sống chết, bình tĩnh như không. Tình cờ không xa có ánh lửa lóe lên, mọi người biết có bờ để cập bến, liền gắng sức chèo thuyền tới. Lên bờ, mọi người phát hiện đó là một hòn đảo hoang, không hề có dấu vết lửa cháy, mới vỡ lẽ là được thần minh phù hộ. Người xưa nói: “Tích thiện thành đức, thánh tâm bị yên” (Tích việc thiện sẽ thành đức hạnh, lòng thánh thiện sẽ được đủ đầy). Trên thuyền này có cao sĩ Quản Ninh, mọi người đều cho rằng chính lòng thiện và hành vi chính trực của ông đã mang lại phúc báo gặp nạn hóa lành cho tất cả.
Trở về quê hương, các quyền thần ở nước Ngụy lần lượt tiến cử Quản Ninh, người có phẩm hạnh cao khiết, ra làm quan, nhưng ông vẫn kiên định giữ vững tiết tháo trong lòng, không bị danh lợi làm lay động. Khi Ngụy Văn Đế tại vị, từng xuống chiếu hỏi Thứ sử Thanh Châu: Quản Ninh là giữ tiết tháo để tỏ ra cao ngạo, hay là vì già yếu bệnh tật? Thứ sử đáp: Quản Ninh tuy tuổi đã cao, nhưng vẫn có thể tự lo liệu cuộc sống, tự thêm bớt quần áo theo thời tiết nóng lạnh, không cần người khác giúp đỡ; mỗi năm cúng tế kính thần, ông đều cung kính thành tâm, tuân thủ lễ giáo; mất mẹ từ nhỏ, ông không nhớ mặt mẹ, nhưng mỗi lần cúng tế vẫn rưới rượu, thường khóc lóc thảm thiết; mỗi khi hè đến, ông chống gậy ra bờ ao, rửa tay chân, rồi trở về đi dạo trong vườn. Người đương thời cho rằng, việc Quản Ninh ẩn cư không phải là giả tạo để tỏ ra mình cao thượng khác người; ông đã đọc nhiều sách thánh hiền, rất chú trọng sự trong sạch của thân và tâm, đưa việc tu thân dưỡng tính vào từng chi tiết nhỏ trong cuộc sống. Ông là một cao sĩ thực thụ, sự đạm bạc đủ để soi lại người xưa, sự liêm khiết có thể làm gương cho đời nay.
Khi con người ở vào bước đường cùng của thời mạt thế, sống không có công trạng gì, chết không có thánh danh để lưu lại tiếng thơm, cả một đời dường như đã định sẵn là tầm thường vô vị. Nhưng Quản Ninh đã cho người đời thấy một ý nghĩa sống khác, cũng chỉ ra một con đường cho những người có chí ở đời sau gặp phải hoàn cảnh tương tự. Nếu không đủ sức xoay chuyển càn khôn, cứu vớt thiên hạ khỏi cảnh lầm than, chi bằng cam chịu sự cô tịch, tu thân dưỡng tính, dùng sức của một mình mình để cảm hóa người đương thời. Càng cô đơn vô danh, càng phải tu luyện một thân chính khí, mới có thể giữ vững chính niệm, lòng thánh thiện mới còn mãi.
Theo Epoch Times