Nói đến võ thuật Trung Hoa, người ta thường nhắc đến Lý Tiểu Long với những màn trình diễn Kung Fu đẹp mắt. Nhưng là người có võ công tuyệt đỉnh, lại là bậc tài tử điện ảnh nổi tiếng, vì sao anh lại đột ngột ra đi khi tuổi đời còn sung mãn?
Thành danh từ phim ảnh cùng với kỹ năng võ thuật siêu phàm, Lý Tiểu Long được xem là biểu tượng số 1 của võ thuật Trung Hoa thế kỷ XX.
Việc Lý Tiểu Long đột ngột ra đi năm 32 tuổi đã đem đến sự tiếc nuối vô hạn cho người hâm mộ cũng như giới yêu thích võ thuật toàn cầu. Nhưng nhìn từ khía cạnh võ công truyền thống, Lý Tiểu Long là người luyện võ thực thụ, đáng lẽ anh đã có thể để lại sự nghiệp huy hoàng hơn thế nữa…
Võ công chân chính không phải để đánh nhau, mà phải coi trọng đức độ
Năm 1941 khi mới 1 tuổi, Lý Tiểu Long cùng gia đình trở về Hồng Kông và sống ở căn hộ số 218 đường Nathan. Lúc nhỏ Lý Tiểu Long có vóc người gầy yếu, cha anh muốn con trai trở nên khỏe mạnh nên đã dạy Thái Cực Quyền cho anh từ năm lên 7. Ông không chỉ muốn con trai được rèn luyện thân thể mà còn hy vọng sẽ làm bớt đi sự hung hăng thích đánh nhau của con, mục đích cũng là để anh tu tâm dưỡng tính. Nhưng có vẻ việc này không đạt hiệu quả như mong đợi vì Tiểu Long vẫn ham thích đấm đá cho đến hết cuộc đời mình.
Thời niên thiếu Lý Tiểu Long sống trong gia đình khá giả, nhưng vì khu dân cư ngày một đông đúc dẫn đến những cuộc xung đột băng đảng tranh giành địa bàn, hoàn cảnh xung quanh nguy hiểm hơn, làm cho tính tình Lý Tiểu Long cũng ngày càng hung hăng.
Năm lớp 4, Lý Tiểu Long bị đuổi học do đánh nhau và vắng mặt nhiều lần nên phải chuyển sang trường St. Francis Xavier’s College. Năm 13 tuổi, cũng vì đánh nhau thua mà Lý Tiểu Long đến bái Diệp Vấn làm thầy học võ, với mong muốn sẽ chiến thắng tại tất cả các trận tỉ thí đường phố.
Biết được tâm tính cậu học trò đặc biệt này, sư phụ Diệp Vấn đã dạy võ công thực chiến cho Lý Tiểu Long. Trong một bài báo đăng ở Hồng Kông, võ sư Diệp Chuẩn (con trai Diệp Vấn) cũng kể rằng cha ông thấy Tiểu Long tiếp thu nhanh lại chịu khó nên đã dành cho Tiểu Long những sự ưu ái đặc biệt. Ngoài Diệp Vấn, Tiểu Long cũng thường được luyện tập với sư huynh Hoàng Thuần Lương, một người rất ưa thích thực chiến. Nhờ vậy trong 6 năm, Lý Tiểu Long đã tiến bộ rất nhanh, dù tuổi còn trẻ nhưng võ thuật đã rất cao.
Có thể bạn cho rằng đây là may mắn lớn của Lý Tiểu Long vì sau này anh thành danh nhờ võ công thực chiến. Nhưng người viết lại cho rằng đây mới thực sự là điều không may của Lý, vì võ công truyền thống chú trọng xây dựng nền tảng thời gian lâu dài, “hậu tích bạc phát”, sau khi tích lũy đủ nội lực thì mới có thể phát triển nhanh và vững chắc được.
Lý Tiểu Long chỉ chú trọng thực chiến nên rất có thể Diệp sư phụ đã huấn luyện anh theo cách chiêu đối chiêu để tập phản xạ và sức chịu đựng. Cách này giúp anh mau thành tựu nhưng lại không thể tích lũy đủ nội lực cần thiết cho các bước đi sau này. Cho nên, những gì Lý Tiểu Long học được chưa chắc hẳn là tinh hoa võ công thực thụ.
Người học võ coi trọng ngộ tính và kiên trì khổ luyện lâu dài
Có một giai thoại khá thú vị về cách Lý Tiểu Long nhận định về võ thuật. Câu chuyện này sau đó trở thành nền tảng cho một trong những triết lý võ thuật nổi tiếng của anh: “Be like water” (Hãy như nước). Lý Tiểu Long đã viết trong các tài liệu võ thuật của mình:
Có một lần trong lúc tập luyện, sư phụ của tôi, tiên sinh Diệp Vấn, lúc đó đi qua tôi và nói: “Tiểu Long, hãy thả lỏng người ra, làm cho tư duy của con lạnh lùng trở lại, hãy quên đi bản thân, đối phương không động thì ta không động, nếu đối phương động thì ta phải động trước”.
“Thì ra là vậy”, tôi nghĩ, “Ta phải thả lỏng!”. Tôi làm theo lời chỉ bảo của sư phụ, nhưng càng gò ép bản thân thả lỏng, thì ý thức của tôi càng căng thẳng hơn, càng khó đạt được thả lỏng thực sự. Đúng lúc tiến thoái lưỡng nan, sư phụ lại nói với tôi: “Tiểu Long, hãy thuận theo tự nhiên, không được gò ép, không được đi vào chỗ bế tắc, biến tắc thành thông. Tuần này không cần phải tập nữa, hãy chịu khó về suy nghĩ đi”.
Theo lời, tôi ở nhà nghỉ một tuần, qua thời gian dài suy nghĩ, tìm tòi nhưng vẫn không tìm được lời giải đáp, tôi liền lên thuyền ra biển dạo chơi. Trên biển, tôi nghĩ lại những ngày huấn luyện đã qua và cảm thấy giận dữ bất bình với nó. Tôi đập mạnh xuống nước biển để xả nỗi bực tức trong lòng, lúc đó bỗng nhiên tôi nhận ra rằng:
Bản chất của võ thuật chẳng phải giống như nước hay sao? Ta đánh nó, nó không hề bị thương, ta lại dốc sức đánh nó, nó cũng chẳng mảy may bị thương tổn. Ta định bắt lấy nó, nó lại hiện ra như không có lực. Nước – vật chất nhỏ yếu nhất trên thế giới này, nhưng lại có thể chứa đựng bất cứ thứ gì, xem ra nhỏ bé không đáng kể gì, nhưng lại có thể xuyên qua vật cứng nhất trên thế giới này mà bản thân không hề bị tổn thương nào – Đó chính là ranh giới mà ta muốn vươn đến.
Bỗng nhiên một con chim bay qua, một làn sóng lăn tăn hiện lên trên mặt nước. Trong lúc tôi đang đắm chìm trong sự huyền diệu sâu xa của nước, một cách suy nghĩ thần bí mà kỳ dị bỗng nhiên hiện ra trong đầu óc tôi. Con chim trong nháy mắt lướt qua mặt nước đúng như hành vi đối ứng mà Diệp Vấn tiên sinh đã giảng giải, không được để bản thân ở vào trạng thái cứng căng, mà phải để thuận theo tự nhiên. Lên đến bờ, tôi để thuyền trôi theo con sóng, và cảm giác mình đã nhập vào thế giới tự nhiên, lúc đó trong lòng tôi hầu như không còn có mâu thuẫn, mà đã đạt đến sự hài hòa, không còn có đấu tranh, thế giới đại đồng.
Võ công truyền thống ngoài việc xây dựng nền tảng nội lực lâu dài ra thì còn đòi hỏi người học phải “ngộ” được “nội hàm” để có thể đạt đến tầng thứ cao hơn. Do đó người luyện võ không chỉ cần tố chất thân thể mà còn phải có ngộ tính tốt. Ngộ tính không phải là “thông minh” như người ta nghĩ mà là khả năng cảm nhận ở một tầng sâu khác, khả năng tiếp thụ những điều siêu thường vượt khỏi giới hạn con người.
Lý Tiểu Long không chỉ là người đam mê võ công thực chiến mà còn có ngộ tính khá tốt. Mặc dù chỉ thông qua một câu điểm hóa của sư phụ mà anh đã ngộ ra võ lý quan trọng từ nước và hiểu được nguyên tắc phát lực của Cương Kình, một loại kình lực căn bản quan trọng của võ công truyền thống. Đáng tiếc là anh chỉ học võ thực chiến nên chỉ có thể dừng lại ở Cương Kình, điều mà sau này anh tìm hết cách để bù đắp mà vượt qua nhưng vĩnh viễn không được.
Buông bỏ tâm tranh đấu mới có thể thành tựu võ công
Nhờ ngộ được Cương Kình từ nội hàm của nước mà Lý Tiểu Long có sự phát triển vượt bậc về võ công của chính mình. Nhưng lúc ngộ ra điều này Lý chỉ mới khoảng 17 tuổi, còn quá trẻ để nhận thức thâm sâu và tiến lên trình cao hơn.
Vì mục đích luyện võ của Lý Tiểu Long là để giành chiến thắng trong các trận thư hùng với các băng nhóm trên đường phố, nên anh không để tâm vào việc tham ngộ võ đạo và võ lý ở tầng cao hơn. Năm 1959, tức năm 19 tuổi, sau 6 năm khổ luyện Vịnh Xuân, do nhiều lần xung đột với hội Tam Hoàng trên đường phố và bị cảnh sát điều tra, cha mẹ Lý Tiểu Long đã quyết định gửi con sang San Francisco, nước Mỹ.
Với 15 đô la của bố và 100 đô la của mẹ, Lý Tiểu Long đã đến Mỹ sống với một người bạn cũ của bố. Ở đây anh vừa đi học vừa dạy võ ở trường, bắt đầu sự nghiệp võ thuật của mình trên đất Mỹ. Không lâu sau anh trở nên nổi tiếng với việc dạy võ và tham gia diễn xuất trong bộ phim truyền hình khá ăn khách là The Green Hornet (1966) khi mới 26 tuổi. Nhưng chính vì chìm đắm trong đỉnh cao danh vọng, anh đã để lỡ cơ duyên phát triển đến võ công thâm hậu.
Ở xứ sở thực dụng này, nơi cách xa quê hương võ thuật nửa vòng trái đất, Lý Tiểu Long hoàn toàn không còn cơ hội để hiểu thêm rằng những gì anh ngộ ra từ nước chỉ là bắt đầu con đường võ đạo; muốn hiểu được chân võ đạo cao siêu thì cần phải trải qua nhiều năm khổ tu cả về tâm lẫn thân nữa mới đạt thành. Anh cũng mất đi sự bảo ban vô giá từ các bậc chân sư võ học như Diệp Vấn, mà không biết rằng đó là sự mất mát lớn nhất đối với người luyện võ chân chính, khiến bản thân anh không bao giờ đạt đến đỉnh cao được nữa.
Sau này, danh vọng ập đến quá sớm đã làm con đường tìm Đạo phải dang dở phí hoài hết một đời, thật đáng tiếc thay. Thế giới có thêm một diễn viên xuất chúng nhưng võ đạo mất đi một hành giả có tiềm năng…
Tĩnh Thủy