Hoa rơi hữu ý theo nước chảy, nước chảy vô tình cuốn hoa trôi, duyên đến duyên đi hãy bình thản mà đón nhận…
Tích xưa kể rằng, thời nhà Đường, dưới triều vua Hy Tông, có chàng thư sinh tên là Vu Hựu. Chàng Vu vốn người nho nhã, tài tử phong lưu, văn thơ lai láng, chỉ hiềm nỗi tài vận chưa thông nên đành phải tá túc nhờ ở phủ của một vị quan đại thần họ Hàn.
Một ngày, Vu Hựu đang thơ thẩn bên dòng Bích Câu, chợt thấy một chiếc lá đỏ dập dềnh trôi theo dòng nước. Hoa trôi hữu ý, nước chảy vô tình, chiếc lá đỏ như vương vấn một mối tình chi đây. Chàng thư sinh bèn vớt chiếc lá lên xem, thấy trên lá đề bài thơ rằng:
“Lưu thủy hà thái cấp,
Thâm cung tận nhật nhàn.
Ân cần tạ hồng diệp,
Hảo khứ đáo nhân gian.”
(Nước chảy sao mà vội,
Thâm cung suốt buổi nhàn.
Ân cần nhờ lá thắm,
Trôi đến tận nhân gian).
Thì ra đó là tâm sự của một giai nhân chốn thâm cung. Hoàng cung là chốn hào nhoáng xa hoa, nhưng không thể làm vơi đi nỗi muộn sầu của người đẹp phải sống cảnh phòng không lạnh lẽo, buồn duyên tủi phận, gối chiếc đơn côi. Như con chim bị giam hãm, dẫu chiếc lồng sơn son thếp vàng cũng không thể khuây khoả được tiếng lòng chan chứa. Nàng đã mượn lá thắm để gửi lòng mình trôi ra ngoài cung cấm.
Tiếng thơ không ai oán, chỉ dịu nhẹ như hơi thở của người thiếu nữ nhưng cũng đủ khiến chàng thư sinh thấy đồng cảm. Vu Hựu bèn nhặt một chiếc lá và đề thơ hoạ lại, sau đó lại lên chỗ thượng nguồn mà thả xuống:
“Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
Thượng dương cung nữ đoạn trường thì
Quân ân bất cấm đông lưu thủy
Diệp thượng đề thi ký dữ thùy?”
(Ngắm liễu nghe oanh thoáng cảm hoài
Cung cấm người đang buổi ngậm ngùi
Nước trôi không xiết ngăn tình ấy
Trên lá thơ đề gửi đến ai)
Kỳ lạ thay cho chiếc lá đề thơ, lại kỳ lạ thay cho tiếng lòng của đôi nam nữ ở hai đầu dòng nước, cuối cùng chiếc lá của Vu Hựu lại trở về với người cung nữ từng thả lá trôi dòng. Cung nữ ấy có tên là Hàn Thuý Tần, khi nhận được chiếc lá hồi âm nàng đã thấy trong lòng xao xuyến. Dẫu chẳng biết mặt biết tên của người tri kỷ ngoài kia, nàng vẫn cẩn thận giữ chiếc lá bên mình.
Rất nhiều năm về sau, hoàng đế cho phép một số cung nữ được hồi hương, Hàn Thuý Tần bèn trở về nương nhờ dinh quan của quan đại thần họ Hàn, vốn là một người thân thích của nàng. Quả đúng là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”, tại đây nàng hội ngộ cùng Vu Hựu, hai người ý hợp tâm đầu đã nên duyên chồng vợ.
Vào đêm tân hôn, Vu Hựu vô tình thấy chiếc lá đề thơ của mình cất trong rương son phấn của vợ, mới hay mối lương duyên này là do Thiên định. Trong cổ thi có bài thơ mà người đời sau vẫn cho là của Hàn Thuý Tần, làm lúc cảm xúc đang trào dâng tha thiết:
“Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
Kim nhật khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương mai”
(Đôi câu thơ nhã theo làn nước
Tâm sự mười năm chất chứa đầy
Ngày nay đã kết nên loan phượng
Mới hay lá thắm thuận duyên may)
Người ta vẫn nói, không có duyên thì không thể gặp mặt, không có phận thì không thể kết đôi. Như chiếc lá kia, dẫu chảy trôi vô định theo dòng nước, chẳng biết rồi sẽ dạt về phương nào, ba chìm, bảy nổi, hoa nát, lá tàn, vậy mà cuối cùng vẫn “cập bến” ở nơi người hữu duyên.
Còn người thiếu nữ kia, nàng vào cung là để mong có được một địa vị cao sang. Nhưng dẫu cách Hoàng đế chỉ một bức tường, mà cả đời cũng không thể gặp mặt, cuối cùng vẫn chỉ là đơn côi gối chiếc, lạnh ngắt buồng không, âu cũng là “vô duyên, vô phận” vậy.
Mới hay Thiên định kỳ duyên, con người ta nếu cứ cố chấp làm điều gì đó thì có khi chỉ chuốc lấy những nỗi sầu buồn tủi. Bởi có những thứ chẳng mong cầu thì lại đến, có những thứ cứ theo đuổi mãi mà vẫn xa tầm tay.
Chỉ có thuận theo Thiên ý, tuỳ kỳ tự nhiên, duyên đến cứ vui vẻ mà đón nhận, duyên đi đừng níu kéo mà càng thêm nuối tiếc, thì mới có thể hạnh phúc và sống trọn vẹn đến cuối cùng.
Hồng Liên