Con người sống ở trên đời, có ai là không muốn được bình an, hạnh phúc? Nhưng để có được những phúc báo thiện quả này, thì không có con đường nào khác ngoài trọng đức hành thiện. Họa phúc không ngẫu nhiên tìm đến, mà chính là do con người tự chiêu mời đó thôi.
Cứu người lúc nguy nan, Thần ban cho con được Trạng Nguyên
Vào thời nhà Minh, tại tỉnh Giang Tây có một thầy đồ họ Thư đi dạy học xa nhà. Một năm nọ, ông cùng với những người đồng hương thuê một chiếc thuyền để trở về thăm quê. Khi thuyền thả neo nghỉ giữa đường, Thư lão sư lên bờ tản bộ, bỗng nghe thấy đằng xa có tiếng khóc thảm thiết vọng lại. Thư lão sư đến gần thì thấy đó là một phụ nữ đang tuổi trung niên. Ông bèn hỏi duyên cớ: “Chị có điều gì phiền muộn mà khóc lóc thảm thiết đến vậy?”.
Người phụ nữ trả lời: “Chồng tôi thiếu nợ quan phủ 13 lạng bạc, lại bị quan phủ ép phải trả ngay. Chồng tôi bị dồn đến chân tường, bất đắc dĩ đã tính đến việc bán tôi để có tiền trả nợ. Nhưng nếu tôi bị bán đi rồi, đứa con bé bỏng của tôi phải làm sao đây? Con tôi không người chăm sóc, cũng không được bú mớm hỏi tôi có thể không đau lòng được sao?”. Nói xong, chị ta lại ôm mặt khóc nức nở.
Thư lão sư bèn an ủi: “Những người đi cùng thuyền với tôi đều là thầy đồ quê quán ở Giang Tây, chỉ cần mỗi người bỏ ra một lượng bạc thì đã có thể giúp chị giải quyết khó khăn này rồi. Chị hãy lau khô nước mắt, đừng quá đau buồn nữa”.
Nói xong, Thư lão sư quay trở lại thuyền để thương lượng với mọi người, nhưng tiếc là không ai nguyện ý bỏ tiền ra và cũng không đồng ý với cách làm của ông. Thư lão sư lấy toàn bộ số tiền lương mà ông tích cóp được suốt hai năm dạy học, tất cả đều đưa hết cho người phụ nữ bất hạnh đó. Công đức của 13 lạng bạc này quả thật là nặng tựa Thái Sơn, đã cứu vớt cả nhà chị ta qua khỏi kiếp nạn.
Nhưng có điều, lúc ấy thuyền vẫn chưa về đến Giang Tây, trong khi số lương khô mà Thư lão sư mang theo đều đã cạn sạch, trên người ông cũng không còn một đồng xu nào. Những người đi cùng thuyền đều chê cười, cho rằng Thư lão sư là thầy đồ mà sao lại khờ khạo đến vậy.
May mắn vẫn có người tốt bụng, thấy ông phải nhịn đói nên đã mời ông dùng cơm với mình. Thư lão sư phải nhờ cơm của người nên không dám ăn no, dọc đường cứ như vậy mà nhịn đói suốt hai ngày trời.
Cuối cùng cũng về đến nhà, Thư lão sư liền nói với vợ: “Tôi đói quá rồi, nàng mau mau nấu cơm cho tôi ăn”.
Vợ ông nói trong nhà không còn gạo nữa, cũng không thể sang vay mượn hàng xóm. “Thiếp đã hỏi mượn gạo nhà hàng xóm biết bao nhiêu lần rồi, với lại đã hứa với họ là đợi sau khi chàng về sẽ nhất định trả lại số gạo đã nợ. Bây giờ chàng đã về nhà rồi, thiếp sao còn dám sang hỏi mượn gạo nữa đây?”.
Thư lão sư liền kể lại đầu đuôi mọi chuyện cho vợ nghe. Nghe xong, vợ ông nói: “Nếu đã như vậy, thiếp sẽ đi hái chút rau dại ngày thường thiếp vẫn hay ăn, chàng chịu khó chờ đợi vậy”. Cũng từ đó, cả hai vợ chồng phải ăn rau dại lót dạ qua ngày.
Buổi tối hôm ấy, khi Thư lão sư vẫn còn đang mơ màng trên giường, ông bỗng nghe thấy trên không trung có tiếng phán rằng: “Đêm nay ăn rau đắng, mai này đỗ Trạng Nguyên!”. Vợ chồng ông biết đó là Thiên Thượng ban phúc, vội vàng khoác áo bước xuống giường, quỳ xuống dập đầu bái lạy.
Năm sau, vợ ông sinh hạ một bé trai mập mạp trắng trẻo, đặt tên là Thư Phương, quả nhiên cậu bé ấy sau này đã thi đỗ Trạng Nguyên.
Giúp người tích âm đức, thăng quan làm Thượng thư
Vào thời nhà Minh, ở Chiết Giang có một thư sinh hiếu học tên là Ứng Đại Du, là người chính trực, cử chỉ nho nhã, thường đến nơi thanh tĩnh để dốc lòng chuyên tâm đọc sách.
Một ngày, chàng thư sinh nghe đồn dưới chân núi ngoại thành có một căn nhà bị ma quỷ quấy nhiễu. Cũng vì căn nhà bị ma ám nên những khách thuê trọ trước đây đều lần lượt một đi không trở lại.
Trong tâm chàng thầm nghĩ: “Người không làm chuyện trái lương tâm, nửa đêm không sợ ma quỷ gõ cửa. Một nơi đọc sách thanh tĩnh như vậy, ta quyết không thể bỏ lỡ!”.
Ứng Đại Du bèn xin ý kiến chủ nhà rồi dọn đến ở trong căn nhà ấy, ngày ngày đóng cửa, chuyên cần học tập.
Ngay đêm hôm đó, khi chàng thư sinh đang say sưa đọc sách dưới ánh đèn thì đột nhiên nghe thấy tiếng động kỳ quái bên ngoài. Thì ra, đó chính là tiếng lũ quỷ đang nói chuyện với nhau.
Một con quỷ nói: “Thôn phía trước có một người phụ nữ, chồng cô ấy ra ngoài làm ăn đã nhiều năm không về, nghe ngóng nhiều nơi mà không tìm được tin tức. Phụ mẫu của cô cho rằng con trai mình không còn hy vọng quay trở về nữa, bèn ép con dâu tái giá. Nhưng người phụ nữ này rất hiền thục, cũng rất có khí tiết, cô thà chết cũng không tái giá. Sau này bị phụ mẫu bức bách ngày càng căng thẳng, cô cảm thấy không còn đường để đi nên có ý định thắt cổ tự tử. Nếu như vậy, ta có thể tìm cô ấy làm người thế thân rồi!”.
Con quỷ kia đáp lại: “Ngươi đã tìm được người thế thân, vậy là sắp được đầu thai rồi, quả thực là chuyện vui đáng chúc mừng, đáng chúc mừng!”.
Đến đây Ứng Đại Du mới hiểu, thì ra con quỷ đầu tiên từng chết vì thắt cổ.
Nhưng nghĩ đến chuyện thôn phía trước có người sắp tự vẫn, chàng động lòng trắc ẩn, bèn quyết định sẽ cứu người phụ nữ ấy. Chàng nghĩ mãi nghĩ mãi, cuối cùng cũng tìm ra một cách hay. Thế là, chàng về nhà bán đi vài mẫu ruộng được 42 lạng bạc, sau đó làm giả một bức thư người chồng gửi cho vợ, rồi tìm cách mang bức thư và 42 lạng bạc tới nhà người phụ nữ đó.
Người nhà nhận được thư và bạc thì vui mừng khôn xiết. Phụ mẫu của cô gái cho rằng, con trai mình ở bên ngoài vẫn bình an vô sự nên không ép con dâu tái giá nữa. Nhưng đọc kỹ bức thư thấy nét chữ không giống bút tích của chồng nên trong lòng cô vẫn bán tín bán nghi.
Hai ngày sau, chồng cô quả nhiên từ nơi xa trở về. Người nhà đoàn tụ mừng mừng tủi tủi, từ đó lại hòa hợp như thuở ban đầu. Cả nhà hồ hởi nhắc tới chuyện bức thư, nhưng vì không thể đoán được bức thư và số bạc đó từ đâu đến nên chỉ biết chân thành cảm ơn người hảo tâm đã âm thầm cứu giúp.
Vài ngày sau, Ứng Đại Du lại nghe thấy hai con quỷ nói chuyện. Con quỷ chết vì treo cổ nói: “Ta vốn đã có thể tìm được kẻ thế thân. Nhưng chỉ vì lỡ nói chuyện với ngươi, vô tình tiết lộ chuyện cơ mật, bị tên tú tài trong phòng đang đọc sách nghe thấy, không ngờ hắn lại phá hoại chuyện đại sự của ta. Giờ ta thực sự thấy hối hận!”.
Con quỷ kia nói tiếp: “Nếu đã như vậy, sao ngươi không báo thù hắn đi?”.
Con quỷ chết vì treo cổ nói: “Tên thư sinh này lòng dạ từ bi, đã cứu mệnh người phụ nữ đó nên tích được âm đức cực lớn, sau này sẽ nhận được phúc báo làm đến chức quan Thượng thư. Ta sao dám hãm hại một người tốt đại phú quý như vậy?”.
Sau này, Ứng Đại Du quả nhiên đậu bảng vàng, lại được phong làm Thượng thư Bộ hình. Ứng Đại Du nhớ lại cuộc trò chuyện giữa hai con quỷ ngày trước, càng thêm tin rằng nhân quả báo ứng là chính xác không sai.
Con người sống ở trên đời, có ai là không muốn được bình an, hạnh phúc? Nhưng để có được những phúc báo thiện quả này, thì không có con đường nào khác ngoài trọng đức hành thiện. Quả thật là: “Họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu”, họa phúc không ngẫu nhiên tìm đến, mà chính là do con người tự chiêu mời đó thôi.
Theo “Đức Dục Cổ Giám” và “Liễu Phàm Tứ Huấn”
Thiện Sinh