Tác giả: Lý Sơ Đạt
Hoàng đế Trung Hoa với ngôi vị cửu ngũ chí tôn, thân vạn thặng, có quyền lực và địa vị tối cao. Tuy nhiên, một vị thánh quân như Đường Thái Tông lại bày tỏ tâm thế “cẩn cẩn trọng trọng”, mở rộng đường ngôn luận và trị quốc bằng thành tín.
Theo “Tư Trị Thông Giám”, vào tháng 2 năm Trinh Quán thứ hai (năm 628 sau Công nguyên), Đường Thái Tông nói với các thị thần rằng: “Người ta đều nói Thiên tử là tôn quý nhất, không có gì phải sợ hãi. Trẫm lại không nghĩ vậy, trên sợ sự giám sát của Trời cao, dưới ngại ánh nhìn của quần thần, luôn cẩn trọng nơm nớp, vẫn lo rằng không hợp với ý trời, không xứng với kỳ vọng của thần dân.” (“Thượng úy hoàng thiên chi giám lâm, hạ đạn quần thần chi chiêm ngưỡng, căng căng nghiệp nghiệp, do khủng bất hợp thiên ý, vị phó nhân vọng”.)
Về điều này, Ngụy Trưng nói: “Đây quả thực là mấu chốt để thực hiện an định quốc gia, hy vọng Bệ hạ trước sau như một, luôn cẩn trọng như vậy là rất tốt rồi.”
Đường Thái Tông biết người và khéo dùng người, lòng dạ rộng mở, để các đại thần dốc hết tài năng của mình. Cả “Trinh Quán Chính Yếu – Kỷ Thành Tín thứ 17” và “Tư Trị Thông Giám” đều ghi lại câu chuyện “Xin có người dâng sớ để trừ gian thần”.
Đầu những năm Trinh Quán, có người dâng sớ xin loại trừ gian thần trong triều. Đường Thái Tông nói, những người trẫm bổ nhiệm đều là hiền thần, khanh có biết ai là gian thần không? Người đó trả lời rằng, thần ở nơi thôn dã, không thể biết chắc ai là nịnh thần. Xin Bệ hạ hãy giả vờ nổi giận để thử lòng quần thần. Nếu ai có thể can gián thẳng thắn mà không sợ mạo phạm, đó chính là bậc chính trực; nếu ai uốn mình theo ý, a dua nịnh bợ, đó chính là kẻ gian nịnh.
Thái Tông quay lại nói với các đại thần bên cạnh rằng, dòng nước trong hay đục là ở tại nguồn. Vua là nguồn của chính lệnh, thần dân ví như dòng nước (“Quân, nguyên dã; thần, lưu dã”). Nếu vua dùng gian trá mà lại muốn bề tôi chính trực, thì chẳng khác nào nguồn nước đục mà mong dòng chảy trong veo, điều này không hợp lẽ thường. Trẫm trước nay luôn xem thường hành vi gian xảo, làm như vậy sao có thể dùng làm mệnh lệnh giáo hóa được? Vì thế, Thái Tông nói với người dâng sớ rằng, trẫm muốn lấy thành tín để cai trị thiên hạ, không muốn dùng thuật gian trá để giáo hóa dân chúng. Lời khanh tuy hay, nhưng trẫm không thể chấp nhận.
Người đời sau cũng cho rằng, phương pháp mà người dâng sớ đề xuất, danh nghĩa là thử lòng, thực chất là gian trá. Đến đời Minh, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã bổ nhiệm các văn võ quan thân tín làm “Kiểm Hiệu”, chuyên giám sát các quan lại lớn nhỏ ở kinh thành có hành vi bất công, phi pháp và nghe ngóng tin đồn, không việc gì là không tâu báo. Sau này lại lập ra “Xưởng Vệ”, với “Đông Xưởng”, “Tây Xưởng” tương tự như các cơ quan đặc vụ, chuyên việc bắt bớ, hình ngục.
Đời Thanh thực hiện chế độ “mật chiết tấu sự”, giúp hoàng đế dễ dàng nắm bắt giá lương thực, tình hình mưa thuận gió hòa, mùa màng, dư luận dân gian, và sự liêm khiết hay tham ô của quan lại. Đến giai đoạn sau, ngay cả những chuyện vặt vãnh trong dân gian cũng phải tâu lên. Theo sách “Khiếu Đình Tạp Lục – Tục Lục” của người Thanh là Chiêu槤 ghi lại, vào đêm Nguyên đán năm đó, Trạng nguyên Vương Vân Cẩm ở nhà cùng bạn bè chơi bài giấy, chơi một lúc thì phát hiện thiếu một lá. Ngày hôm sau lên triều, Ung Chính hỏi ông tối qua tiêu khiển gì, Vương Vân Cẩm trả lời thành thật. Ung Chính nghe xong cười và nói, “Không lừa dối ở nơi khuất tất, quả là Trạng nguyên lang”. Vừa nói, ngài vừa lấy từ trong tay áo ra một lá bài, chính là lá bài bị mất tối qua.
Trong khi đó, Đường Thái Tông lại có thể làm được việc chấn chỉnh từ gốc, vua tôi một lòng. Theo “Tư Trị Thông Giám”, Thái Tông thần thái anh vũ cương nghị, khiến các quần thần đến yết kiến đều lúng túng tay chân. Sau khi biết chuyện này, mỗi khi thấy có người tấu sự, Thái Tông đều tỏ ra hòa nhã, mong được nghe lời can gián.
Đường Thái Tông từng nói với các công khanh: “Người muốn soi mình, ắt cần gương sáng; vua muốn biết lỗi, ắt phải nhờ cậy trung thần (‘Nhân dục tự chiếu, tất tu minh kính; chủ dục tri quá, tất tạ trung thần’). Nếu vua ương bướng cố chấp, không nghe lời khuyên can mà tự cho mình là tài giỏi, bề tôi lại a dua nịnh hót, thuận theo ý vua, thì vua sẽ mất nước, mà bề tôi sao có thể một mình bảo toàn được?”
Chính vì sự anh minh thần võ của Đường Thái Tông mà bên cạnh ngài mới có những hiền thần như Ngụy Trưng, Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối.
Năm Trinh Quán thứ ba (năm 629 sau Công nguyên), Thái Tông đến điện Thái Cực nghe chính sự, nói với quần thần: “Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh đều là các cơ quan trọng yếu, nếu chiếu thư mệnh lệnh có chỗ nào không thỏa đáng, đều nên thảo luận và đưa ra ý kiến. Gần đây chỉ thấy thuận theo ý trẫm, không nghe thấy có ý kiến khác. Nếu chỉ là xử lý các công việc giấy tờ, thì ai mà làm không được, cớ gì phải chọn lựa người tài năng!”
Năm Trinh Quán thứ sáu, tức năm 633 sau Công nguyên, Thái Tông đích thân thẩm vấn các tù nhân đang bị giam giữ. Khi thấy những tù nhân đáng bị xử tử, lòng ngài thương xót, bèn cho họ về nhà, hẹn đến mùa thu năm sau quay lại chịu án tử. Đến thời gian đã hẹn vào năm sau, tổng cộng ba trăm chín mươi tử tù được thả năm trước, không ai giám sát dẫn dắt, đều tự giác quay về ngục đúng hạn, không một người nào bỏ trốn. Vì vậy, Đường Thái Tông đã xá tội cho tất cả bọn họ.
Nhà thơ đời Đường Bạch Cư Dị đã làm bài thơ “Thất Đức Vũ – Mỹ Bát Loạn, Trần Vương Nghiệp Dã” ghi lại sự việc này: “Oán nữ ba nghìn cho ra khỏi cung, Tứ trăm tử tù quay về chịu tội.” Đường Thái Tông cho các cung nữ trong hoàng cung ra ngoài đoàn tụ với gia đình, cho các tử tù về nhà ăn Tết, có thể nói là lòng dạ vô cùng nhân hậu.
Năm Trinh Quán thứ bảy, tháng 12, Thái Tông cùng các thị thần bàn luận về gốc rễ của sự an nguy quốc gia. Trung thư lệnh Ôn Ngạn Bác nói: “Hy vọng Bệ hạ thường xuyên được như những năm đầu Trinh Quán, vậy là rất tốt rồi.”
Thái Tông hỏi: “Gần đây trẫm có lơ là việc triều chính sao?”
Ngụy Trưng nói: “Những năm đầu Trinh Quán, Bệ hạ một lòng theo đuổi sự tiết kiệm, không ngừng tìm kiếm lời can gián. Gần đây, việc xây dựng sửa chữa có phần tăng lên, người dâng lời can gián thường bị cho là trái ý Thánh thượng, đó chính là điểm khác biệt giữa hiện tại và những năm đầu Trinh Quán.”
Thái Tông vỗ tay cười lớn và nói: “Quả thật có chuyện như vậy!”
Đường Thái Tông còn phát hiện, nội dung trong các sớ tấu của quần thần có những điểm đáng tiếp thu, nhưng đến khi triệu kiến đối đáp trực tiếp thì phần lớn lại nói năng lộn xộn. Ngài bèn hỏi Ngụy Trưng nguyên do là vì sao?
Ngụy Trưng trả lời: “Thần quan sát các quan thự khi tấu báo sự vụ thường phải suy nghĩ nhiều ngày, đến khi diện kiến hoàng thượng, lại chẳng nói được một phần ba. Huống chi người can gián thường đi ngược lại ý vua, động chạm đến những điều cấm kỵ, nếu không phải Bệ hạ lời lẽ khoan dung, sắc mặt hòa nhã, thì sao họ dám bày tỏ hết suy nghĩ của mình!”
Từ đó, khi tiếp kiến quần thần, Thái Tông càng có lời lẽ và sắc mặt ôn hòa hơn. Ngài từng nói: “Tùy Dạng Đế tính hay đa nghi, khi lâm triều đối mặt với quần thần thường không nói lời nào. Trẫm lại không như vậy, trẫm và quần thần thân thiết như một thể vậy (‘dữ quần thần tương thân như nhất thể nhĩ’).”
Năm Trinh Quán thứ mười bảy, Đường Thái Tông nói với các đại thần bên cạnh: “Sách ‘Tả truyện’ có câu: ‘Thà bỏ lương thực chứ không thể để mất lòng tin của dân (khứ thực tồn tín)’, Khổng Tử cũng nói: ‘Người mà không có chữ tín thì không thể đứng vững trong xã hội (dân vô tín bất lập)’. Xưa kia Hạng Vũ sau khi vào Hàm Dương đã kiểm soát được thiên hạ, nếu lúc đó ông ta có thể nỗ lực thi hành chính sách nhân nghĩa và thành tín, thì ai có thể đoạt được thiên hạ của ông ta?”
Đường Thái Tông tại vị hai mươi ba năm, chỉ dùng một niên hiệu là “Trinh Quán” (627–649), sử sách gọi là “Trinh Quán chi trị”. Ngài dốc lòng cai trị, sớm hôm cẩn trọng, trị quốc bằng thành tín, dẫn dắt quần thần tạo nên một thời thịnh thế Trinh Quán, được đời sau ngưỡng mộ và ca tụng.
Theo Epoch Times