Biển Thước tên thật là Tần Việt Nhân, hiệu: Lư Y, là một thầy thuốc trứ danh thời Chiến Quốc và được xem là một trong những danh y đầu tiên được ghi chép sớm nhất trong các thư tịch của lịch sử Trung Quốc.
Tương truyền ông chính là người khai sinh ra phương pháp bắt mạch, là người đặt nền móng quan trọng cho nghề Đông y. Do tiếng tăm và các điển tích thần kỳ, về sau Biển Thước cùng Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được hậu thế xưng tụng là: “Trung Quốc cổ đại Tứ đại danh y”.
Từ chủ quán trọ, gặp cơ duyên trở thành Thần y lẫy lừng danh tiếng
Biển Thước vốn người quận Bột Hải, thuộc Mạc châu thời nước Trịnh; nay là huyện Nhâm Khâu, tỉnh Hà Bắc. Ông sinh vào khoảng năm 401 TCN. Thời còn trai trẻ, Tần Việt Nhân vốn là chủ một quán trọ, và mưu sinh bằng nghề này.
Lúc đó, có một lương y biệt danh là Trường Tang Quân thường trọ tại quán của Việt Nhân. Việt Nhân rất kính trọng vị lương y này, nên đã phục vụ rất chu đáo và không lấy tiền. Để đáp lại, Trường Tang Quân nhận Việt Nhân làm học trò và truyền hết sở học của mình cho Việt Nhân.
Khi tay nghề đã thành thạo, Việt Nhân bỏ làm quán trọ và chuyển hẳn sang làm nghề thầy thuốc, ông dần dần trở nên nổi tiếng, vì Tần Việt Nhân chữa bệnh quá tài tình nên được dân chúng nước Triệu tặng cho biệt hiệu Biển Thước tiên sinh. Tương truyền, Biển Thước là tên một vị thần y sống vào thời Hoàng Đế.
Vân du khắp nơi, vạch trần các trò lừa bịp, dùng tài nghệ y thuật để trị bệnh cứu người
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, thuật đồng bóng đang lan tràn, nghề y bị lạnh nhạt. Nhiều người mắc bệnh không uống thuốc mà cứ rước đồng bóng về để “đuổi quỷ, trừ tà”. Thậm chí nhiều nước chư hầu còn đặt ra các chức quan như “đại chức”, “tư vu” để chuyên lo việc đồng cốt này.
Biển Thước rất ghét thói ấy nên thường xuyên phê phán, phủ nhận nó một cách không ngần ngại, ông cùng một số học trò bèn vân du khắp nơi thông qua hiệu quả trị bệnh của mình để vạch trần các trò lừa bịp. Căn cứ vào kinh nghiệm dân gian và nhiều năm làm nghề y của mình, Biển Thước đã đúc kết ra phương pháp “tứ chẩn” trong phép khám và điều trị bệnh là: “nhìn-nghe-hỏi-bắt mạch”.
Ngoài việc vận dụng thành thạo “tứ chẩn” để đoán bệnh, Biển Thước còn sử dụng nhiều biện pháp trị liệu như châm kim đá, châm cứu, xoa nóng, xoa bóp, mổ xẻ, bốc thuốc v.v… Theo “Hán thư ngoại truyện”, có lần Biển Thước dẫn năm người học trò đến nước Quắc (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây) để hành nghề thầy thuốc, nghe nói Thế tử nước Quắc bị bệnh qua đời đột ngột, ông cảm thấy đáng ngờ, bèn xin được vào xem.
Quan sát một hồi, thấy cánh mũi người chết còn động đậy, hai chân còn ấm, Biển Thước chẩn đoán kỹ rồi kết luận: “Thế tử mắc chứng “thi quyết” (chết giả), có thể cứu sống được”. Ông bèn châm kim các huyệt chủ yếu, tiếp theo sai các học trò của mình là Tử Minh làm ngải cứu, Cốc Tử đổ thuốc, Tử Dung xoa bóp không ngừng tay. Hồi lâu, quả nhiên “người chết” dần dần tỉnh lại. Sau đó Biển Thước lại dùng thuốc dán dưới hai nách, lúc sau bệnh nhân liền ngồi dậy được ngay.
Vua nước Quắc hết sức vui mừng, không tiếc lời khen ngợi. Người xem Biển Thước như thần tiên, cho rằng ông có thuật “cải tử hoàn sinh”. Biển Thước khiêm tốn giải thích: “Không phải tôi cứu sống người chết, mà người bệnh vốn chưa chết, tôi chỉ cứu người bệnh khỏi cơn hấp hối mà thôi”.
Đoán bệnh như thần, nhìn thấy trước cái chết của vua Tề
Về tài dùng mắt đoán được bệnh, có một giai thoại kể về Biển Thước, đã được sử gia Tư Mã Thiên ghi lại trong bộ “Sử Ký” và người đời sau nhắc lại một lần nữa trong bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc (ở hồi thứ 32) như sau: Một hôm Biển Thước sang nước Tề gặp Tề Hoàn Công. Ông thấy khí sắc vua Tề không tốt, bèn tâu:
“Thưa Quân hầu, trong da và chân lông ngài đã có gốc bệnh, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm”.
Tề Hoàn Công thờ ơ đáp: “Ta cảm thấy trong người rất khỏe, chẳng có bệnh tật gì cả”.
Biển Thước lui ra, sau đó năm ngày sau ông lại vào cung vua yết kiến, vị thần y nhìn sắc diện Tề Hoàn Công rồi khẳng định một lần nữa với vua Tề: “Bệnh của ngài đã vào đến nội tạng rồi, phải chữa ngay đi”.
Hoàn Công tỏ vẻ khó chịu, không trả lời. Sau khi Biển Thước đi khỏi, ông mới bảo với mọi người: “Thầy thuốc chỉ khéo vẽ vời, hù dọa người ta. Ta đây vốn chẳng có bệnh gì mà ông ta dám bảo là bệnh nặng. Thật vớ vẩn!”.
Năm ngày sau nữa, Biển Thước lại vào yết kiến, chỉ mới nhìn mặt vua Tề, Thần y đã quay bước, bỏ đi thẳng. Tề Hoàn Công sai người chạy theo hỏi, Biển Thước nói: “Bệnh ở da, thịt thì còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn cho uống thuốc được, nay bệnh đã vào đến xương tủy rồi thì trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi”.
Mấy ngày sau quả nhiên Hoàn công phát bệnh. Ông vội cho người đi tìm Biển Thước, nhưng lúc này vị Thần y đã đi sang nước Tần rồi. Bệnh Hoàn công ngày càng trở nặng, chẳng bao lâu vị bá chủ chư hầu này tạ thế.
Về phương pháp bắt mạch thần kỳ của Biển Thước, cũng lưu truyền trong dân gian một giai thoại như sau: Có lần Biển Thước đến nước Tấn, gặp lúc Triệu Giản Tử, vốn là người đang nắm quyền chính trị rất cao trong nước mà lại lâm bệnh nặng. Giản Tử hôn mê đã năm ngày, triều đình đã cho mời thầy thuốc khắp nơi đến chẩn bệnh và điều trị cho Giản Tử mà không có vị danh y nào đoán ra căn nguyên của bệnh.
Biển Thước liền đến bắt mạch cho Giản Tử, thấy tim mạch bệnh nhân đập yếu ớt, lại biết được tình hình chính trị nước Tấn lúc ấy vô cùng rối ren, đoán định là họ Triệu lao tâm quá mức, mắc chứng bệnh nghẽn mạch máu (máu tuần hoàn không bình thường) dẫn đến hôn mê. Ông bèn bốc thuốc cho uống thuốc. Quả nhiên chỉ hai ngày sau thì Triệu Giản Tử đã có thể bình phục.
Hết thời cháo khoai mài đoạt mạng; Gặp thời nước lã cứu hồi sinh…
Chuyện kể rằng một hôm có một phụ nữ khá đẹp đến gặp Biển Thước, xin một toa thuốc độc, có thể giết người mà không để lại dấu vết. Đối tượng mà người phụ nữ định đầu độc chính là chồng của cô ta, vì người thiếu phụ này vốn đã có tình ý với một người đàn ông khác. Biển Thước sợ nếu mình từ chối, sẽ có người khác giúp người phụ nữ lăng loàn ấy hoàn thành tâm nguyện, nên giả vờ nhận lời. Ông dặn: về mua khoai mài (hoài sơn) gọt vỏ nấu với lươn cho chồng ăn, mỗi ngày một lần, ít lâu sẽ chết. Người đàn bà hớn hở về làm đúng như lời hướng dẫn.
Khoảng hơn tháng sau, chị này mang lễ vật đến tạ ơn Biển Thước, báo tin chồng mình đã chết. Thần y rất đỗi ngạc nhiên, chẳng hiểu sao khoai mài nấu cháo lươn vốn là một món rất bổ dưỡng mà ăn vào lại chết. Biển Thước cảm thấy rất đau lòng, lương tâm cắn rứt, lại hoài nghi về kiến thức y học của chính mình, nên ông đã lập lời thề giải nghệ, không chữa cho bất kỳ ai. Biển Thước còn đem chìa khóa tủ sách thuốc nhà mình vứt xuống sông cạnh nhà.
Sau đó ít lâu, một hôm vừa thức dậy, Biển Thước thấy một chàng trai trẻ làm nghề đánh cá đến van xin ông làm phước cứu vợ anh ta đang bị khó sinh. Biển Thước nhớ lại lời thề dạo trước nên không thèm trả lời chàng trai, chỉ lớn tiếng bảo người nhà: “Lấy nước rửa mặt”! Chàng ngư phủ lại ngỡ đó là lời vị danh y mách bảo cho mình, bèn ba chân bốn cẳng chạy về nhà làm đúng như thế. Quả nhiên vừa rửa mặt xong thì vợ anh ta đẻ được ngay.
Vài hôm sau, chàng trai đánh bắt được một con cá lớn, nhớ ơn thầy thuốc cứu vợ con mình, bèn kính cẩn đem con cá đến biếu. Một lần nữa, Biển Thước rất ngạc nhiên, mới hỏi: “Tôi có ơn huệ gì với anh đâu, mà anh đem cá tạ ơn?”.
Chàng trai đáp: “Nhờ ơn thầy dạy, tôi lấy nước rửa mặt cho vợ tôi thì vợ tôi sinh được ngay một thằng con trai rất cứng cáp, dễ thương, nên có chút quà này, mong thầy nhận cho”.
Biển Thước không sao lý giải được hai trường hợp hy hữu trên, cho là tại thời vận hên xui, nên cảm hứng nhất thời mà thốt lên hai câu thơ sau:
“Vận khứ, hoài sơn năng trí tử;
Thời lai, thanh thủy khả thôi sinh”
(Ý tứ là: Hết thời, khoai mài có thể làm chết người; còn thời, nước lã có thể cứu sống người).
Sau khi người đánh cá ra về, Biển Thước sai người nhà đem cá ra mổ, chẳng ngờ lại thấy trong bụng cá có một chùm chìa khóa, ông bèn nhặt lên xem kỹ lại thì lạ thay lại chính là chìa khóa tủ sách thuốc mà Biển Thước đã ném xuống sông khi xưa. Thần y tự nghiệm rằng: Thiên mệnh đã đặt định cho mình nghề làm thuốc để cứu người, không thể chối bỏ. Từ đó ông ra sức nghiên cứu sâu thêm về y thuật, cứu được rất nhiều bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên ông vẫn trăn trở vì không hiểu do đâu lại có việc cháo củ mài nấu với lươn mà có thể hại chết người.
Một hôm có người đem lươn lại nhà bán. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Biển Thước, ông bảo người bán lươn đổ cả giỏ lươn xuống đất, thấy trong đám lươn chỉ có một con ngóc đầu lên cao, còn lại thì đều rạp đầu sát đất. Biển Thước bèn mua con lươn ngóc đầu ấy đem làm thịt nấu cháo cho chó ăn thì chó chết.
Bấy giờ Biển Thước mới hiểu cái chết oan uổng của chàng trai có vợ lăng loàn là do ăn phải thứ lươn ngóc đầu lên (vốn là một loại rắn nước độc) chứ không phải tại khoai mài. Còn nước lã giúp vợ chàng đánh cá đẻ mau, vì chị ấy quá mệt, không còn sức rặn. Khi đem nước lạnh rửa mặt, sản phụ cảm thấy sảng khoái, sức mạnh tăng thêm nên sinh được dễ dàng chứ không có gì bí hiểm cả.
Bắt mạch, chẩn đoán chính xác bệnh tình là một cống hiến lớn của Biển Thước đối với y học Trung Quốc nói riêng, ngành Đông y nói chung. Trong “Sử ký”, Tư Mã Thiên tán tụng: “Đến nay thiên hạ nói đến mạch là do Biển Thước vậy”. Thật ra nói thế có phần nào hơi phóng đại, nhưng đúng là Biển Thước rất tinh thông phép bắt mạch, chẩn đoán bệnh chính xác và trị bệnh giỏi như thần.
Vì quá nổi danh mà bị gian thần hãm hại
Đến cuối đời, danh tiếng Biển Thước ngày càng lớn, điều này cũng khiến cho nhiều người ganh ghét, trong đó có một viên quan Thái y nước Tần tên Lý Ê. Hắn vốn là kẻ bất tài, thấy y thuật Biển Thước hơn người, sợ một ngày nào đó có thể uy hiếp vị thế của mình nên đã đang tâm lập âm mưu giết Thước.
Năm Chu Noãn Vương thứ 5 (310 TCN), Biển Thước diện kiến Tần Vũ Vương. Sau khi nghe vua Tần kể bệnh, Biển Thước xin được điều trị. Một số người can ngăn vua Tần: “Đại vương đau ở phía trước tai, phía dưới mắt. Trị chưa chắc đã hết, không khéo tai lại hóa điếc, mắt hóa mờ mất”.
Tần Vũ vương vốn nhát, nghe vậy bèn thôi, không cho Biển Thước trị bệnh.
Biển Thước giận dữ, bỏ đồ nghề xuống đất, mắng vua Tần: “Đại vương hỏi kế của bậc trí giả mà lại nghe lời kẻ ngu ngốc để hỏng việc. Điều đó đã cho tôi thấy chính trị của nước Tần tương lai là như thế nào, nước Tần có thể mất vì đại vương đấy”.
Sau khi chẩn bệnh cho Tần Vũ Vương xong, Biển Thước rời đi. Khi đến mặt bắc của Ly Sơn, Lý Ê đã sai người lén phục kích bên hông đường nhỏ chờ Biển Thước đến và giết chết ông. Tương truyền khi ấy Thần y Biển Thước đã khoảng 90 tuổi. Nhân dân ở nhiều địa phương rất thương tiếc ông, bèn cho dựng mộ bia và lập đền thờ Biển Thước ở khắp các vùng như: Thiểm Tây, Sơn Đông, Hà Bắc…
Sự nghiệp lưu danh sử sách
Theo sách sử ghi chép, Biển Thước khi còn sống đã có viết sách “Biển Thước nội kinh”, “Biển Thước ngoại kinh” đáng tiếc là cho đến nay những tác phẩm này đều đã bị thất lạc mất. Hiện chỉ còn cuốn “Nạn kinh”, có giá trị tham khảo rất cao về kinh mạch.
Sử gia Tư Mã Thiên khi đánh giá về vị Thần y Biển Thước đã rất trân trọng mà viết rằng: “Biển Thước hành nghề y làm kẻ đứng đắn tôn trọng, giữ mực thước tinh tế trong sáng, đời sau học theo không phải dễ”. Thiết tưởng sự đánh giá của Tư Mã Thiên về thần y Biển Thước như trên không có gì là quá đáng.
Đường Phong (tổng hợp)