Một vị Đạo sĩ cho biết ông sinh từ thời năm Khang Hy, sư phụ của ông sinh từ thời triều đại nhà Đường. Ông đã kể lại quá trình tu luyện đáng kinh ngạc của mình.
Tôi nay đã 330 tuổi, sinh từ thời năm Khang Hy, triều đại nhà Thanh. 330 tuổi không được xem là già lắm, tôi đã tận mắt thấy người hơn 2.000 tuổi, nghe nói còn có người trên 5.000 tuổi hiện vẫn đang sống tại nhân gian, chỉ là không có cơ duyên được thấy họ mà thôi.
Tôi là người gốc Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, trong những năm Ung Chính do tránh loạn lạc, cả nhà tôi chạy lên núi Đại Ba, thật không may gặp phải lở đất, chỉ còn lại mình tôi sống sót. Năm đó tôi 30 tuổi. Sau đó, tôi bị lạc đường hơn 10 ngày, khi sắp chết vì đói, tôi được một đạo sĩ cứu. Chính vị đạo sĩ này đã trở thành sư phụ của tôi, khi đó ông tu luyện ở núi Đại Ba và đã hơn 700 tuổi. Từ đó, tôi theo sư phụ học pháp môn Tam Thanh. Pháp môn này không có liên quan gì với Đạo giáo.
Lên núi tu đạo, xuống núi vân du
Sư phụ của tôi là người triều đại nhà Đường, tu luyện đã hơn 700 năm, nhưng ông xem ra còn trẻ hơn tôi khi đó. Vì ông đã đắc Đạo, có nỗ lực tu tiếp cũng không lên được nữa nên đã chính truyền lại cho tôi pháp môn này.
Công pháp tu luyện của pháp môn là ngủ. Sau khi được sư phụ truyền công pháp, lần thứ nhất tôi ngủ hơn một tháng, khi tỉnh dậy thân thể có nhiều biến hóa, như thành một con người khác, khỏe mạnh hơn rất nhiều so với trước. Tiếp theo, sư phụ bảo tôi đọc “Đạo đức kinh”, đọc xong cuốn kinh thư, tôi lại ngủ. Cứ đọc sách, ngủ, lặp đi lặp lại không ngừng như vậy một mạch 60 năm, cuối cùng tôi cũng đạt được tới cảnh giới Tiểu Thành: Khai mở thiên mục, đả thông đại chu thiên và nhiều công năng đặc dị khác như thuật ban vận, bay trên không, tha tâm thông, thấu thị nhân thể v.v…
Từ ngày tu luyện, vẻ ngoại hình của tôi định lại ở độ tuổi 30, cho đến nay vẫn không thay đổi. Khi tu đến cảnh giới Tiểu Thành, sư phụ cho tôi xuất sơn vân du. Sư phụ nói nếu tôi bị danh lợi và sắc dục cám dỗ, phồn hoa nơi thế gian làm mê lạc thì không được quay trở về núi nữa, khi đó phải tự tìm lấy con đường của mình. Nếu sau 3 năm vân du mà không bị mê lạc thì quay về núi Đại Ba, ông sẽ tiếp tục hướng dẫn các công pháp tiếp theo.
Xuống núi vân du rất khổ, phải thực hành rất nhiều giới cấm. Thứ nhất, không được sử dụng bất kỳ công năng nào. Trước khi xuống núi, sư phụ đã khóa lại tất cả công năng của tôi, bao gồm cả công năng tịch cốc, do vậy tôi phải tự tìm cách giải quyết vấn đề ăn uống của mình. Thứ hai, không được dùng tiền, chỉ được thông qua khất thực để xin đồ ăn. Thứ ba, cấm trộm cắp, tà dâm, uống rượu, các giới luật tương tự như trong Phật giáo. Sư phụ bất cứ lúc nào cũng có thể dùng thiên nhãn thông để theo dõi tôi, nếu tôi phạm bất kể giới cấm nào đều sẽ không còn cơ hội theo sư phụ tu luyện nữa.
Rời núi Đại Ba, tôi đi đến Thiểm Tây, Vị Nam, Đồng Quan. Cuối cùng, tại Đồng Quan tôi gặp vấn đề về lương thực. Với vẻ bề ngoài là một thanh niên khỏe mạnh 30 tuổi nên việc xin ăn là vô cùng khó, tôi thường bị mắng chửi, chẳng có mấy người bố thí. Tại Đồng Quan, tôi xin làm việc cho một gia đình địa chủ họ Lưu để được ăn, ở chứ không nhận tiền công. Địa chủ rất vui khi nhận tôi làm công. Tôi đã lặng lẽ ở nhà họ Lưu 3 năm và may mắn đã không phạm giới lần nào. Sau 3 năm tôi quay trở lại núi Đại Ba với sư phụ.
Sau đó tôi không ngừng tu luyện, cứ mỗi 30 hay 50 năm, tôi lại xuống núi vân du vài năm, cũng có lần sư phụ vân du cùng với tôi, tôi không thể lười biếng ở nhà địa chủ như trước mà mỗi ngày đều đi xin ăn.
Sau nhiều năm vân du, nếm trải đủ các gian khổ, cay đắng ngọt bùi nơi thế gian nhưng ý chí tu luyện của tôi chưa bao giờ dao động. Chúng tôi không bao giờ can thiệp vào sự đổi thay của các triều đại vương quyền, thế sự, thảm họa hoặc chiến tranh. Những sự việc này đều có định số, bất cứ ai tùy tiện tác động đều bị tai ương. Nhiều người cảm thấy rất hứng thú với việc tu đạo nhưng họ không hiểu rõ rằng tu đạo phải nhẫn chịu rất nhiều khó khăn, thống khổ. Ngồi luận đạo nhâm nhi vài chén trà cùng bạn hữu thì đó không phải là tu hành mà là thư giãn, nghỉ ngơi.
Tu luyện được hơn 200 năm, sư phụ tôi mất vào năm trước khi triều đại nhà Thanh sụp đổ, từ đó môn phái chỉ còn lại mình tôi. Mục đích của tu đạo là trở thành tiên, đạt được trường sinh nhưng môn pháp của chúng tôi tu cao nhất chỉ đạt tới Ngũ Khí Triều Nguyên, so với trường sinh bất tử còn kém chút ít.
Thi thể của sư phụ không bị phân hủy nên tôi để trong một ngôi đền đổ nát ở Hán Trung, sau này ngôi đền đó bị chiến tranh tàn phá nên nhục thân của sư phụ cũng bị hủy hại không còn. Điều này không có gì đáng tiếc vì đó chỉ là một thân xác mục nát.
Từ khi sư phụ mất, tôi độc tu một mình. Độc tu là cái khổ lớn nhất của người tu hành, rất tịch mịch cô độc. Mỗi khi nhập định là ngồi liền luôn một năm, xuất định chỉ sau mấy ngày rồi lại nhập định, mười mấy năm không trông thấy một bóng người, không nói lấy một câu là chuyện rất bình thường. Để vượt qua sự cô độc tịch mịch, bắt đầu từ năm 1960, tôi vừa vân du vừa tiếp tục tu luyện.
Khi xảy ra hỏa hoạn ở Đại Hưng An Lĩnh năm 1988, chính là lúc tôi tu đạt đến cảnh giới cao nhất: Ngũ Khí Triều Nguyên. Các công năng đặc dị của tôi đạt tới đỉnh điểm cao nhất, tất cả công năng từng nghe nói đến tôi đều đã đạt được, hơn nữa công lực rất lớn mạnh, vượt xa so với công năng của những người có công năng đặc dị.
Về sau, khi đi vân du, tôi không phải giữ đúng giới luật như trước, có thể sử dụng công năng tùy theo hoàn cảnh nhưng tuyệt đối không can thiệp vào những sự việc của con người và xã hội, cả những việc nhỏ bé nhất cũng không can thiệp. 5 năm tiếp sau, tôi đi khắp nơi, khắp các ngóc ngách trên mọi miền thế giới, biết được có rất nhiều người tu luyện giống như tôi, tôi đã từng sống ở nhiều nơi nhưng đều không cảm nhận được ý nghĩa của cuộc sống.
(Còn tiếp)
Thần Phật bảo hộ cho ‘người tín Thần Phật’ như thế nào?