Có thể nhìn thấy quá khứ và tương lai, nhưng tại sao người có năng lực thông linh không thể nhìn thấy tương lai của chính họ? Những ký ức về sinh mệnh luân hồi được tồn trữ ở đâu?

Chào mừng các bạn đến với Bí ẩn chưa được giải đáp. Hôm nay chúng ta tiếp tục kể câu chuyện về cậu bé M có năng lực thông linh.

Lần trước, chúng tôi đã chia sẻ một cuộc trò chuyện thú vị giữa cậu bé M với ông nội đã khuất của cậu về linh hồn. Hôm nay chúng tôi sẽ chia sẻ một số đạo lý mà cậu bé đã học được từ những người thầy ở các không gian khác. Một số đạo lý khá kinh ngạc, nằm ngoài suy đoán của con người.

Quá khứ của vị gia sư và tương lai của người anh họ

Cậu bé M không chỉ có thể nhìn thấy quang huy của nhân thể, giao tiếp với các sinh mệnh ở không gian khác, mà thậm chí còn dần dần phát triển cái mà Phật gia gọi là công năng túc mệnh thông, chính là có thể biết quá khứ và tương lai.

Ông Palmer, vị gia sư mà sau này trở thành người bạn thân mật nhất của cậu bé, ban đầu không tin cậu có năng lực thông linh. Cho đến một ngày, vị gia sư giảng về địa lý, nói rằng ông đã từng đến Canada một lần. Cậu bé đột nhiên nói với vị gia sư, có phải thầy đã yêu một cô nương trên thuyền và hy vọng cô ấy làm vợ mình không? Nhưng sau khi đến Canada, cả hai không bao giờ gặp lại nhau nữa. Sau này lại có dịp tương ngộ, thầy phát hiện cô ấy không thích hợp làm vợ mình chút nào, có đúng vậy không?

Gia sư Palmer sửng sốt. Lẽ nào đứa trẻ này có thể đọc được suy nghĩ? Vì vậy, ông hỏi cậu bé những gì khác mà cậu biết. Lúc này, linh hồn một người đàn ông kỳ quái đội chiếc mũ to tướng xuất hiện trước mặt cậu bé, nhưng ông Palmer không thể nhìn thấy. Linh hồn kia khiến cậu bé hỏi ông Palmer còn nhớ Sam North không. Nghe đến cái tên này, Palmer càng sốc hơn, ông nói còn nhớ: “Ông ấy là người tốt, ngày đó ông ấy đã cứu mạng thầy.” Palmer từ đó đã xua tan mọi nghi ngờ và hợp tác với học trò của mình để nghiên cứu về tâm linh học.

Năng lực thông linh của cậu bé không chỉ giới hạn ở việc nhìn rõ quá khứ, mà dần dần, cậu bé cũng có thể nhìn thấy tương lai. Một ngày, cậu nhận được một bức thư của chị họ Anne. Đọc thư của chị họ, không biết tại sao nhưng cậu cảm thấy chị họ sắp kết hôn. Quả nhiên Anne ngay sau đó đã kết hôn. Trong đám cưới, khi cậu bé nhìn thấy quang huy tuyệt đẹp của chú rể Hopkins, cậu cảm thấy rằng hai người nhất định sẽ hạnh phúc, nhưng sẽ không đến lúc đầu bạc răng long. Những sự thật sau đó đã chứng minh rằng, dự cảm của cậu là đúng.

Tiền kiếp của bản thân

Dần dần, cậu bé cảm thấy có một số người kỳ thực đã biết nhau từ kiếp trước, khi tương ngộ họ lại sẽ yêu nhau. Tuy nhiên, cậu cũng không rõ tơ duyên này xuất phát từ đâu. Cho đến ngày hôm đó, khi cậu bị cảm mạo nặng, nằm mê man trên giường, giữa mộng và thực, dường như cậu đã hồi về quá khứ rất lâu, rất lâu, cậu cảm thấy mình là một con người khác, những người xung quanh cậu đều mặc y phục kỳ lạ, trông rất cổ lão.

Lúc này, vị “trưởng lão” trông giống Chúa Giê-su đã luôn bên cậu xuất hiện và nói với cậu rằng: “Con của ta, đây không phải là kiếp đầu tiên của con trên thế gian này, mỗi người chúng ta đã từng sống qua rất nhiều đời rồi. Những gì con nhìn thấy là những ký ức từ quá khứ, chúng đều tồn trữ trong linh hồn con.”

Cậu bé không cảm thấy ngạc nhiên khi nghe nó, vì nó được ấn chứng trong một số mộng cảnh của chính cậu. Cậu từng mơ thấy mình đang ngồi một mình trong một sơn động, thân thể màu sô cô la, nơi đó thời tiết nóng như thiêu như đốt. Trong giấc mơ cậu cảm thấy bình yên và an lạc. Đây tựa hồ như là một trong những kiếp sống của cậu với tư cách là một người tu luyện.

Trong một mộng cảnh khác, cậu cảm giác mình là một ông lão tuổi đã rất cao, và một cậu bé da đen đội khăn trùm đầu cúi đầu chào cậu và mang cho cậu một bát thức ăn. Nhưng cậu bé ấy không phải là con ruột của ông lão kia, mà là một môn đồ. Rồi một số người đội khăn trên đầu đến gặp ông lão, hướng đến ông lão mà hành lễ, và ông lão đã dạy họ điều gì đó nghe có vẻ rất trí huệ. Đại khái trong kiếp đó, cậu đã từng là một trí giả đức cao vọng trọng.

Còn ở kiếp trước, cậu đã từng là một nhà văn. Cậu cảm thấy, điều này lý giải vì sao cậu đã tiếp tục viết nhật ký trong một thời gian dài khi mà những đứa trẻ khác ở độ tuổi của cậu sẽ nhanh chóng chán nản với việc viết nhật ký. Trong một kiếp sống khác, cậu cũng là một thi nhân lãng du ở Wales, điều này giải thích tình yêu âm nhạc của cậu trong kiếp này, cũng như tình yêu của cậu với cây đàn hạc. Cậu cảm thấy những đam mê, hứng thú của mọi người, chẳng hạn như làm thơ, sáng tác hay hội họa, đều có liên quan đến những gì họ đã từng làm trong kiếp trước.

Vị “trưởng lão” đã khẳng định quan điểm của cậu, ông nói: “Những nỗ lực mà sinh mệnh đạt được trong một kiếp, sẽ lại được triển hiện dưới hình thái một loại tài năng thiên phú hoặc năng lực ở kiếp sau.”  Có lẽ điều này lý giải nguyên nhân sự xuất hiện của các thần đồng. Ví như Mozart 4 tuổi đã có thể phổ khúc (nhớ và chép lại cả bản nhạc giao hưởng); Lạc Tân Vương có thể làm thơ khi 7 tuổi; còn có Cam La được phong hầu làm tể tướng năm 12 tuổi; chẳng phải đằng sau thiên phú đáng kinh ngạc của họ đều là những nỗ lực từ tiền kiếp?

Vị “trưởng lão” cũng nói với cậu bé rằng, trong ký ức cũng có một số chuyện không được tốt đẹp, nhưng cậu không cần phải lo lắng vì điều đó. Bởi vì nếu một người không còn nhớ những sai lầm mà họ đã mắc phải trong quá khứ, họ sẽ lại tái phạm; nếu họ nhớ những sai lầm đó, họ có thể học được trí huệ. Cái mà người ta gọi là “lương tâm”, kỳ thực là một chủng ký ức nhắc nhở một người không nên lặp lại những điều sai trái mà họ đã từng làm, để bản thân không phải tự chuốc lấy rắc rối một lần nữa.

Thường nghe có người nói, tôi là một cá nhân không có tín ngưỡng, nhưng tôi tuân theo lương tâm của chính mình, tôi sẽ không làm bất cứ điều gì trái với lương tâm của tôi, nếu không, lương tâm tôi sẽ bất an, và cả đời này tôi sẽ không ngủ ngon. “Lương tâm” này, cũng giống như tín ngưỡng, đến từ nơi đâu? Quý vị có nghĩ rằng lời giảng giải trên của vị “trưởng lão” là một đáp án không tồi?

Sau đó, vị “trưởng lão” tiết lộ rằng thầy Palmer và cậu bé đã luôn yêu thương và giúp đỡ nhau trong kiếp trước, vì vậy họ lại có cơ duyên để yêu thương và giúp đỡ nhau trong kiếp này. Và bản thân hai người họ và vị trưởng lão “đã gắn bó mật thiết trong rất nhiều kiếp, tuy rằng mỗi kiếp sống đi theo một quỹ đạo khác nhau.” Dân gian có một câu nói không biết đã được lưu hành từ bao giờ, nói rằng tất cả những cơ duyên tương ngộ trên thế gian đều là cửu biệt trọng phùng – đoàn tụ sau thời gian dài ly biệt. Nói như vậy có đúng không?

Vị “trưởng lão” nhận thức đúng như vậy. Ông nói: “Đừng nghĩ rằng mọi thứ xảy ra một cách tình cờ, mà hết thảy đều do ‘luật pháp’ khống chế. Khi gặp lại những người mình từng yêu thương, bạn sẽ cảm thấy hân hoan; gặp lại những người mình từng hận, bạn sẽ cảm thấy hao tổn – đương nhiên nếu bạn có trí huệ, bạn luôn có thể khoan hậu.”

Vậy “luật pháp” này là gì? Vị “trưởng lão” giải thích thêm, đó chính là “nhân quả”. “Mỗi người chúng ta đều được định hình bởi những suy nghĩ, dục vọng và hành động của ‘quá khứ’ (kiếp trước): Thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả. Đây chính là “luật pháp”. Tin vào luật nhân quả, chúng ta mới có thể tha thứ khi người khác đối xử với ta bất hảo, mới có thể chân chính đạt đến sự “khoan thứ”.

Và sự “khoan thứ” không chỉ là một mỹ đức mà chúng ta thường nhìn nhận, kỳ thực nó còn là một lực lượng cường đại. Chúng tôi trước đó đã từng đề cập câu chuyện “Người tái sinh” ở Hải Nam,  rằng Đường Giang Sơn tái sinh đã khoan thứ cho người đã giết anh ta trong kiếp trước, do đó hóa giải mối hận thù giữa hai thôn. Đây chính là triển hiện của lực lượng cường đại này. Bởi sự “khoan thứ” đến từ cái Thiện, mà Thiện có sức mạnh hóa giải mọi oán hận. Đó là lý do tại sao người ta nói “Nhân giả vô địch” (người nhân từ không có kẻ thù).

Tại sao không thể nhìn thấy tương lai của mình?

Nói về điều này, một số bạn bè có thể nói rằng thật tuyệt khi có được siêu năng lực như cậu bé M, có thể tự mình nhìn thấy tương lai mà không cần tìm thầy bói, tránh hung truy cát. Nhưng vị “trưởng lão” nói rằng, điều này là không được phép.

Cuộc hôn nhân đầu tiên khi trưởng thành của M đã vô cùng thất bại. Không lâu sau khi kết hôn, cả hai người đã đồng sàng dị mộng, điều gì cũng không thể thống nhất. M hàng năm phải bôn ba khắp nơi để trốn tránh, mãi cho đến khi vợ anh mất vào 10 năm sau. Tuy nhiên, M đã không có bất cứ dự cảm trước hôn nhân nào liên quan đến hết thảy những chuyện này, thậm chí một thầy bói nói rằng cuộc hôn nhân của M sẽ hạnh phúc, và M rất tin vào điều đó. Còn vị “trưởng lão” từng bảo hộ cho M cũng chưa bao giờ nhắc nhở anh. Có một hôm, M nhẫn không nổi đã than thở với vị “trưởng lão”, sao ông có thể nhẫn tâm nhìn đệ tử của mình nhảy vào hố lửa?

Tuy nhiên, câu trả lời của vị “trưởng lão” khiến M cảm thấy có chút mất mặt. Vị “trưởng lão” nói: “Ta tuy thân là trưởng lão, cũng không thể giúp đệ tử nhảy thoát khỏi nghiệp chướng. Con và vợ con có nghiệp lực chung, cần cho hai người hoàn trả, nếu ta báo trước cho con, vậy ta đã can dự vào pháp tắc của nghiệp lực, mà điều này hẳn nhiên là tuyệt đối không được phép.”

“Trừ những tình huống rất hiếm hoi, một người có năng lực thấy trước tương lai không được phép thấy trước vận mệnh của chính mình, tại sao vậy? Bởi vì khi một người biết trước vận mệnh của mình, anh ta sẽ thấy trước mà chuẩn bị, và điều này là can dự vào pháp tắc nghiệp báo.”

Câu trả lời thú vị phải không? Muốn dùng siêu năng lực làm lợi cho bản thân, loại chuyện này không được phép. Bởi vì những sinh mệnh cao tầng như vị “trưởng lão” không hồi ứng.

Ý nghĩa của luân hồi

Vậy tại sao chúng ta chết đi rồi lại tái sinh trong vòng nghiệp chướng? “Vị trưởng lão” đã trả lời câu hỏi này khi một vị đệ tử ở không gian khác đến gặp M. Ông nói rằng, linh hồn quay trở lại Địa Cầu bởi những nguyên nhân, như các chủng các loại dục cầu, không cách nào giải thoát. Nói một cách đơn giản, nợ nghiệp chưa hoàn trả, muốn đi cũng không thoát.

Sau đó, gia sư Palmer hỏi, nếu linh hồn này không muốn đầu thai chuyển thế thì sao? Vị đệ tử của “trưởng lão” nói: “Vậy thì phải tồn trữ những bảo vật của mình ở Thiên đàng, không truy cầu tài phú nơi thế gian. Nói một cách đơn giản, người ta phải cần vô tư… làm người cần tránh làm điều ác, mới không mắc nợ, thì sau này anh ta sẽ không buộc phải trong luân hồi mà trả nợ; Thứ hai, anh ta cần hành thiện cho bản thân, không cầu hồi báo.” “Hầu hết mọi người đều muốn giàu có, muốn có quyền lực, có địa vị cao, hoặc muốn nổi bật, tất cả những dục vọng này đều là sợi dây thừng trói giữ linh hồn, kéo linh hồn tái nhập luân hồi.”

Chính là nói, nếu muốn lưu lại thế giới tâm linh vĩnh cửu, người ta nhất định cần từ bỏ mọi loại dục vọng trong thế gian, hòa hợp với những sinh mệnh cao tầng trên tầng diện tinh thần, và đạt đến tiêu chuẩn của cảnh giới đó.

Trở thành Thần hộ mệnh

Một số linh hồn đã thăng lên những nơi rất cao và không muốn trở lại thế giới, họ đã trở thành Thần hộ mệnh. Đệ tử của vị “trưởng lão” nói rằng mỗi quốc gia hay dân tộc đều có vị Thần hộ mệnh riêng, người sẽ bảo hộ chúng sinh của mình theo phương thức mà chúng ta khó có thể lý giải được. Ví dụ, Đô đốc Nelson, được mệnh danh là “Thần Hải quân” ở Vương quốc Anh, đã đánh bại hải quân của Napoléon trong trận Trafalgar nổi tiếng vào năm 1805, và đạt được địa vị bá chủ về hàng hải của Vương quốc Anh.

Ngay sau đó, cậu bé M đến London và nhìn thấy chính cậu, Đô đốc Nelson ở Quảng trường Trafalgar, người đã trở thành Thần hộ mệnh, trên thân đang tỏa ra một thứ ánh sáng vô cùng mỹ diệu.

Vị đệ tử cũng từng kể cho cậu bé M nghe rằng từ rất lâu rất lâu trước kia, bản thân cậu bé đã là một vị Thần hộ mệnh, lúc đó cậu rất yêu quý vị “trưởng lão”. Vị “trưởng lão” đã giúp cậu kinh qua sinh tử của nhân loại. Những người từng là Thần hộ mệnh dễ dàng nhìn thấy các linh hồn và thần tiên hơn, vì vậy cậu bé giờ đây có thể nhìn thấy nhiều thứ mà những người khác không thể.

Theo Epoch Times, Hương Thảo biên dịch