Mã tiên thảo hay Cỏ roi ngựa là thảo dược quý nhưng ít được biết tới. Nó là thần dược chữa cổ trướng và các loại bệnh khác. Theo Bách thảo Dược dụng Thú thoại, xung quanh nguồn gốc của nó còn có một câu chuyện rất thú vị.

Trong các sách thuốc Đông y, cây cỏ roi ngựa thường gọi là Mã tiên thảo (“mã là ngựa, tiên là cây roi, thảo là cỏ). Vị thuốc còn có rất nhiều tên khác như cây chỉ thiên, Phượng cảnh thảo, Thiết mã tiên, Hạc tất phong, Thoái huyết thảo…

Nguồn gốc của cây Mã tiên thảo

Trong sách “Bách thảo Dược dụng Thú thoại” ghi lại một truyền thuyết về tác dụng chữa bệnh cổ trướng của Mã tiên thảo. Tương truyền, những khi nhàn rỗi Quán Thế Âm Bồ Tát thường ngao du khắp các nơi, Người ngồi trên đài sen, đưa mắt nhìn bốn phương, quan sát dân tình để kịp thời cứu khổ cứu nạn. Ngày nọ khi đến gần một đỉnh núi thấy có một đám mây đen quấn quanh lúc tán lúc tụ. Lấy làm nghi ngờ, Người liền hóa thân thành một bà cụ và tới tìm hiểu nguyên do.

Xa xa, trên đỉnh núi có một bãi đất bằng phẳng, có nhóm người đang vừa chăn gia súc vừa hát hò vui vẻ. Quan sát kỹ hơn bỗng nhiên Người nhìn thấy một người đàn bà đang cầm cây roi ngựa đánh một người đàn ông. Người đàn ông gầy gò, người nổi gân xanh, da đen sạm đang nằm ngửa trên mặt phiến đá to và nhẵn, áo phanh ra để lộ bụng trướng to tựa như cái trống.

Quán Thế Âm Bồ Tát tiến lại gần, thấy người phụ nữ mắt ngân ngấn lệ hỏi người đàn ông: “Ông có chịu được nữa không?’. Người đàn ông cắn răng chịu đau, trán nhễ nhại mồ hôi gật gật đầu mà nói: “Chịu được, chịu được, bà tiếp tục đánh đi” và lẩm nhẩm đếm. “Đét … đét ….” cứ mỗi lần đánh xong, người phụ nữ lại lấy vạt áo lau nước mắt, còn trên da bụng người đàn ông đã hằn lên những vết bầm tím, rỉ máu. Quán Thế Âm Bồ Tát tiến tới ngăn lại và hỏi nguyên nhân. Người phụ nữ thở dài lau nước mắt đứng nhìn bà, còn người đàn ông nhổm dậy, mặt lộ rõ vẻ tức giận mà nói: “Bà già kia, đây không phải việc của bà. Người dân thôn tôi, cứ mắc bệnh cổ trướng đều dùng roi ngựa đánh vào bụng là khỏi. Muốn nhanh, phải đánh sớm và đủ 1000 roi. Tôi mới được có một nửa cần tiếp tục. Bà đi chỗ khác cho tôi chữa bệnh”.

Mã tiên thảo loại cỏ truyền thuyết được Phật Bà ban để cứu khổ cứu nạn (Ảnh: vi.photo-ac.com)

Nghe thấy vậy, Quán Thế Âm Bồ Tát mỉm cười và bảo đôi vợ chồng nọ: “Cái roi ngựa mà thần diệu vậy à? Đưa cho ta xem chút nào”. Cầm cây roi trong tay một lát, Người liền cắm nó xuống đất và nói: “Ta sẽ biến nó thành một cái cây, các ngươi chỉ cần nhổ lên sắc lấy nước uống thì sẽ khỏi bệnh. Không cần dùng roi ngựa mà đánh nữa”

Chỉ trong nháy mắt, chiếc roi đã mọc rễ, biến thành một cái cây, có lá xẻ răng cưa, thân có cạnh và có đốt giống như roi ngựa. Hai vợ chồng người chăn dê ngẩn người hồi lâu lát sau mới bừng tỉnh, khi định quỳ xuống dập đầu cảm ơn thì Quán Thế Âm Bồ Tát đã biến mất từ lúc nào. Hai người nhớ lời dặn, nhổ cây đem sắc uống. Khi thuốc vừa xuống đến bụng, người đàn ông thấy có tiếng kêu ùng ục bên trong hồi lâu rồi bụng từ từ xẹp xuống.

Tác dụng của Mã tiên thảo

Theo Đông y, Mã tiên thảo có vị đắng, tính mát, đi vào các kinh Can và Tỳ. Có tác dụng giải biểu, hoạt huyết, tán ứ, thanh nhiệt, giải độc, thông kinh, lợi tiểu, tiêu thũng. Thường dùng chữa cảm mạo phát sốt, sốt rét, cổ trướng, hầu họng sưng đau, hoàng đản (vàng da), bạch hầu, đòn ngã tổn thương, …

Trong các sách về Đông dược dùng trên lâm sàng, cỏ roi ngựa thường được xếp vào nhóm các loại thuốc “giải biểu” (giải trừ tác nhân gây bệnh ở các bộ phận thuộc phần bao bọc bên ngoài của cơ thể . Nhưng do cỏ roi ngựa còn có tác dụng giải độc, nên một số sách thuốc lại xếp nó vào loại thuốc “giải độc”. Dưới đây là một số tác dụng của vị thuốc này:

1. Ăn phải cá độc sinh cổ trướng: Dùng một nắm cỏ roi ngựa to, sắc nước uống nhiều lần trong ngày (Theo Tuệ Tĩnh – “Nam dược thần hiệu”).

2. Cổ trướng – bụng trướng to, da đen sạm, phiền khát: Dùng cỏ roi ngựa, giã nát, sắc với nước hoặc rượu, uống khi còn nóng (Theo Vệ sinh Giản dịch phương).

Lá và hoa mã thiên thảo có chứa glycosides (verbenin), alkaloids, tanin, chất tạo đắng và dầu dễ bay hơi. Những hợp chất có trong cây cung cấp cho cho chúng khả năng chống co thắt, hạ sốt và lợi tiểu.(Ảnh: vi.photo-ac.com)

3. Họng sưng đau: Dùng cành và lá cỏ roi ngựa tươi một nắm to, giã nát, vắt lấy nước cốt, hòa thêm một lượng sữa người vào, ngậm và nuốt dần từng ít một (Theo Giang Tây Trung thảo dược học).

4. Sốt rét: Dùng cỏ roi ngựa khô 30-60g, sắc nước uống. Trước và sau lúc lên cơn sốt 1-2 giờ uống 1 lần.

5. Phòng viêm gan truyền nhiễm: Dùng cỏ roi ngựa 25g, cam thảo 5g, sắc với 150ml nước, đun nhỏ lửa đến khi cạn còn 40ml – đó là liều lượng 1 lần uống đối với người lớn; mỗi ngày uống 3 lần vào trước bữa cơm, liên tục trong 4 ngày.

6. Hoàng đản (vàng da): Dùng rễ cỏ roi ngựa tươi hoặc toàn cây tươi 50g, sắc lấy nước, bỏ bã, pha thêm đường; chia thành 3 phần uống trong ngày; nếu vùng gan trướng đau thêm sơn tra 15g vào sắc cùng (Theo Giang Tây Thảo dược thủ sách).

7. Trĩ nội: Dùng cỏ roi ngựa, rau dền gai – mỗi thứ 20g; sắc uống thay trà trong ngày, liên tục trong nhiều ngày.

8. Da lở ngứa: Khi da bị lở ngứa, có thể lấy 50-100g cỏ roi ngựa tươi, nấu nước để tắm rửa hàng ngày và xoa xát lên chỗ da có bệnh; tác dụng chống viêm và chống ngứa rất tốt. Cây không độc, không gây dị ứng, mẩn ngứa như lá han hay một số loại lá độc khác.

Kiên Định t/h

Loạt bài Kỳ y dị thảo, đành rằng trích dẫn từ sử sách xưa lưu lại, nhưng có thể có nhiều tình tiết mà độc giả khó lòng liễu giải, nhất là chiểu theo y học hiện đại. Thực ra, y lý thường phức tạp hơn những gì người ta có thể nhìn thấy ở bề mặt, hoặc đọc được trong sách. Thêm vào đó, y học dân gian thậm chí là Đông y có nền tảng lý luận khác nhau nhiều so với y khoa thực chứng. Do vậy có lẽ chúng ta cũng chỉ nên xem đây như những câu chuyện để tham khảo, nhất định không được thử làm theo.