Từ một nữ sinh ngây thơ trong sáng, làm thế nào để trở thành một nữ Hồng vệ binh tàn độc nhất? Từ một người trí thức, một cán bộ trung kiên của đảng, làm thế nào để biến thành kẻ thủ ác sẵn sàng xuống tay với đồng bào, và rồi cuối cùng chính mình lại trở thành nạn nhân của cỗ máy bạo lực mà mình từng góp phần vun đắp? Đây không phải là một câu hỏi giả tưởng. Nó là một vết sẹo nhức nhối trong lịch sử, một bi kịch đã thực sự diễn ra, mà khởi đầu của nó là một cơn bão chính trị mang tên Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản.
[MC] xin kính chào quý vị. Trong chương trình hôm nay của ‘Phân tích và Bình luận’, chúng ta sẽ cùng nhau lật lại những trang sử đen tối nhất của Trung Quốc thế kỷ 20. Chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Ai đã biến những thanh niên học sinh trở thành những con quỷ dữ tàn bạo? Ai đã châm ngòi cho ngọn lửa hủy diệt nền văn minh, và vòng lặp bi kịch của những kẻ tham gia vào cuộc tàn sát đó đã diễn ra như thế nào?CƠN BÃO TỐ CHUẨN BỊ ÙA VÀO TRUNG NAM HẢI
Mọi chuyện bắt đầu vào đầu năm 1962. Tại Bắc Kinh, một hội nghị công tác trung ương đã được triệu tập. Hội nghị này có quy mô cực kỳ lớn, ngay cả cán bộ cấp huyện cũng được tham dự, với tổng số lên đến bảy nghìn người, vì vậy nó được gọi là “Hội nghị Bảy nghìn người”. Bối cảnh của hội nghị là cả nước Trung Quốc vừa trải qua một thất bại thảm khốc của chính sách “Bước Đại nhảy vọt”, dẫn đến nạn đói khủng khiếp, người dân chết la liệt ở khắp nơi. Mục tiêu của hội nghị là để tổng kết kinh nghiệm và khôi phục lại trật tự kinh tế bình thường.
Tại đây, Chủ tịch nước lúc bấy giờ là ông Lưu Thiếu Kỳ đã có một bài phát biểu thẳng thắn. Ông nói rằng thảm họa này là “ba phần thiên tai, bảy phần nhân họa”, và “nhân họa” chính là do chính sách của trung ương đã sai lầm. Trong một phiên họp khác, Bí thư Thành ủy Bắc Kinh Bành Chân còn đi xa hơn. Ông nói, “Bước Đại nhảy vọt, công xã lập nhà ăn tập thể đều là do Chủ tịch Mao phê duyệt”. Nhưng rồi ông lại nói thêm: “Uy tín của Chủ tịch Mao không phải là đỉnh Everest thì cũng là núi Thái Sơn. Lấy đi vài tấn đất thì vẫn sừng sững như vậy.” Ý của ông là gì? Là các vị cứ mạnh dạn góp ý cho Mao Trạch Đông đi, không sao cả, núi Thái Sơn, đỉnh Everest gánh được hết.
Liệu có thực sự không sao không? Bốn năm sau, vấn đề đã nổ ra. Tại một hội nghị cấp cao của đảng ở Hàng Châu, Mao Trạch Đông bắt đầu lên tiếng phê phán Bành Chân.
Thế nhưng, văn kiện phê phán này khi đến Bắc Kinh, nơi do Bành Chân chủ trì công việc, lại rơi vào im lặng. Các cán bộ như Bạc Nhất Ba lúc đó rất sốt ruột, họ tự hỏi tại sao văn kiện của Mao Trạch Đông phê bình Bành Chân đến giờ vẫn chưa được truyền đạt? Tất cả đều đã bị ém xuống. Phải biết rằng, Bành Chân khi đó đang giữ chức Bí thư Ban Bí thư Trung ương kiêm nhiệm Bí thư Thành ủy Bắc Kinh. Mà Ban Bí thư lại là cơ quan quản lý việc hạ đạt các văn kiện của trung ương.
Đúng lúc này, vợ của Mao Trạch Đông là Giang Thanh đã “đánh một báo cáo nhỏ” cho chồng về tình hình của Thành ủy Bắc Kinh. Nghe xong, Mao Trạch Đông nói một câu nổi tiếng: “Cái Thành ủy Bắc Kinh này đúng là nước tạt không vào, kim châm không thủng.” Ông còn nói: “Bành Chân, Lưu Thiếu Kỳ, ta chỉ cần một ngón tay út là có thể đánh gục hắn.”
Ngay sau đó, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thông qua bản “Thông tri 16 tháng 5” lừng danh, một văn kiện được xem là biểu tượng cho sự khởi đầu chính thức của Đại Cách mạng Văn hóa. Thế nhưng, Lưu Thiếu Kỳ từ thời Diên An đã là một trọng thần của đảng, thậm chí một phần của “Tư tưởng Mao Trạch Đông” cũng là do ông ta đề xướng. Lưu Thiếu Kỳ có một lượng lớn người theo đuổi, muốn đánh đổ ông ta không phải là chuyện dễ dàng. Vì vậy, Mao Trạch Đông bắt đầu phải dùng đến cái mà ông gọi là “ngón tay út” của mình.
NGỌN LỬA BÙNG LÊN TỪ ĐẠI HỌC BẮC KINH
Tháng 5 năm 1966, dưới sự chỉ đạo của Khang Sinh và vợ là Tào Dật Âu, một nhóm bảy người thuộc khoa Triết học Đại học Bắc Kinh, đứng đầu là bà Nhiếp Nguyên Tử, đã dán một tờ “đại tự báo” vào ngày 25 tháng 5. Mũi nhọn của tờ đại tự báo này chĩa thẳng vào Đảng ủy Đại học Bắc Kinh và Thành ủy Bắc Kinh.
Ngày 1 tháng 6, Đài Phát thanh Nhân dân Trung ương, theo chỉ thị của Mao Trạch Đông, đã cho phát toàn văn tờ đại tự báo này. Tờ Nhân Dân Nhật Báo còn ca ngợi tờ đại tự báo của Nhiếp Nguyên Tử là “tờ đại tự báo Marxist-Leninist đầu tiên”.
Bắc Kinh, trung tâm chính trị của thời đại, những người trẻ tuổi ở đây, đặc biệt là các sinh viên đại học, có độ nhạy cảm chính trị cực kỳ cao và cũng rất dễ bị kích động. Hãy thử nghĩ xem, từ tiểu học, trung học đến đại học, trong suốt mười sáu, mười bảy năm kể từ năm 1949, họ đã được giáo dục những gì? Đó là sự ngưỡng mộ và tưởng nhớ về những lý tưởng cách mạng, về những chiến công của các liệt sĩ cách mạng. Sau đó, qua các cuộc vận động chính trị như “chống phái hữu”, “bốn thanh lọc”, những người trẻ này bắt đầu nhận thức được rằng đấu tranh giai cấp là một cuộc chiến đẫm máu gươm đao. Trong tư tưởng của họ đã hình thành một tiềm thức, một khát vọng được lao vào cuộc đấu tranh rực lửa đó.
Mọi hành vi tàn ác đều được thực hiện dưới danh nghĩa cách mạng. Việc đầu tiên mà các sinh viên muốn “cách mạng” chính là sinh mệnh của hệ thống giáo dục đang quản lý họ.
THÁNG SÁU ĐỎ VÀ CƠN BÃO BẠO LỰC
Ngày 18 tháng 6 năm 1966, trong khuôn viên Đại học Bắc Kinh đã xảy ra “sự kiện 18 tháng 6” nổi tiếng. Các sinh viên đã tổ chức cái gọi là “đội đánh chó”, lôi các cán bộ, giáo sư của trường và các khoa, cùng một số người đang bị phê đấu trong các đơn vị trực thuộc trường ra để đấu tố, bắt đầu tiến hành sỉ nhục nhân phẩm và tấn công bạo lực.
Lúc đó, vài chục sinh viên đã xông vào văn phòng khoa Ngữ văn của Đại học Bắc Kinh, gào thét: “Lôi Trình Hiền Sách ra đây cho tao!”. Trình Hiền Sách là ai? Ông là Bí thư khoa Ngữ văn lúc bấy giờ. Trong lúc hoảng loạn, ông đã chạy trốn vào một nhà vệ sinh nữ. Bên trong tình cờ có một nữ nhân viên, vừa nhìn thấy đã giật mình kinh hãi: “Đây không phải là bí thư sao? Sao ngài lại chạy vào đây…”. Cô còn chưa nói hết câu, đã nghe thấy tiếng la hét truy sát của đám sinh viên phía sau. Nữ nhân viên này phản ứng rất nhanh, lập tức giúp bí thư Trình trốn vào phía sau nhà vệ sinh.
Nhưng đám sinh viên đã bị “cách mạng” làm cho mờ mắt, còn quản gì là nhà vệ sinh nam hay nữ, họ xông vào lục soát và cuối cùng vẫn lôi được ông Trình Hiền Sách ra. Chờ đợi ông còn có điều gì tốt đẹp nữa không? Cùng lúc đó, các giáo sư nổi tiếng của khoa Ngữ văn như Vương Lực, Vương Dao cũng bị bắt đến. Các sinh viên vung nắm đấm và gậy gộc lên người họ. Có sinh viên còn dùng thắt lưng quân dụng có khóa đồng, một quất xuống là da thịt nát bươm.
Giáo sư Vương Dao đã bị một quất như vậy đánh ngã xuống đất. Bắt đầu từ ngày 18 tháng 6, bạo lực đã phát triển thành hành động tập thể quy mô lớn, thổi bùng lên cái gọi là “cơn bão đỏ tháng Sáu”.
Ngày 26 tháng 7, tại một đại hội do Giang Thanh và những người khác chủ trì, một sinh viên của trường Trung học Phổ thông trực thuộc Đại học Bắc Kinh tên là Bành Tiểu Mông đã xông lên sân khấu. Dưới khán đài là một vạn cán bộ giáo viên. Trước mặt một vạn người, Bành Tiểu Mông đã dùng chiếc thắt lưng có đầu khóa bằng đồng, “choang” một tiếng, quất thẳng vào người tổ trưởng tổ công tác Trương Thừa Tiên. Đây là tiền lệ đầu tiên về việc đánh người ngay trên khán đài một đại hội.
Năm ngày sau, Mao Trạch Đông đã viết một lá thư cho một tổ chức Hồng vệ binh của một trường trung học. Trong thư, ông còn điểm danh khen ngợi Bành Tiểu Mông. Hành vi bạo lực đã nhận được sự tán đồng của vị thống soái tối cao, cùng với sự ủng hộ và cổ vũ rõ ràng của các lãnh đạo Cách mạng Văn hóa khác. Ngay lập tức, bạo lực toàn diện đã bùng nổ.
“YÊU MA QUỶ QUÁI” VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA NỀN VĂN MINH
Ngày 27 tháng 7, sau khi tổ công tác rút đi, Nhiếp Nguyên Tử, người đã dán tờ đại tự báo đầu tiên, bắt đầu nắm giữ quyền quản lý cao nhất của Đại học Bắc Kinh. Một sinh viên khoa triết học đã bắt đầu quản lý cả một trường đại học danh tiếng. Việc đầu tiên bà ta đề nghị là gì? Thành lập “Đội Cải tạo Lao động Yêu ma quỷ quái”.
Những giáo sư, cán bộ bị đưa vào đội cải tạo này đều bị cạo “đầu âm dương”, trên cổ phải đeo một tấm biển lớn ghi tội danh của mình, và còn phải hát những bài hát tự nguyền rủa bản thân như “Ta là yêu ma quỷ quái”.
Tháng 7 ở Bắc Kinh, thời tiết nóng như thiêu như đốt. Dưa hấu ở ngoại ô cũng đã vào mùa. Hãy tưởng tượng, giữa cuộc đấu tranh sôi sục, những sinh viên trẻ tuổi này ăn rất nhiều dưa hấu để giải nhiệt. Tất nhiên, họ còn có một việc khác cũng rất “giải nhiệt”, đó là gì? Là đánh đập, sỉ nhục các giáo sư của mình.
Giáo sư mỹ học nổi tiếng Chu Quang Tiềm khi đó được giao nhiệm vụ chuyên nhặt vỏ dưa hấu trước ký túc xá sinh viên. Sinh viên ăn dưa, ông nhặt vỏ. Còn có rất nhiều Hồng vệ binh từ các nơi đến Bắc Kinh để “học tập kinh nghiệm cách mạng” của Đại học Bắc Kinh. Họ không quen biết những giáo sư nổi tiếng này. Sinh viên Đại học Bắc Kinh sẽ chỉ cho họ: “Nhìn kìa, nhìn kìa, ông ta chính là Chu Quang Tiềm.” “Ối, cái ông bị cạo đầu âm dương kia là chủ biên của một tạp chí văn học, là tác giả của cuốn ‘Lịch sử Mỹ học phương Tây’ đó.” “Chà, một yêu ma quỷ quái nổi tiếng như vậy à, đá cho một phát!”
Ngày 3 tháng 8 năm 1966, giáo sư khoa Ngoại ngữ của Đại học Bắc Kinh, ông Ngô Hưng Hoa, một người được mệnh danh là “đại nho” của Trung Quốc, thông thạo cả văn hóa Trung Hoa và phương Tây, người được coi là nhà thơ số một của thi đàn Trung Quốc những năm 40, đã bị cưỡng bức nhổ cỏ trong trại lao động. Các sinh viên đã ép ông uống nước bẩn trong một con mương, mà nguồn nước này lại chính là nước thải từ một nhà máy hóa chất gần đó.
Rất nhanh sau đó, ông Ngô Hưng Hoa đã bị trúng độc và hôn mê. Các sinh viên nói: “Giả chết, giả chết, không được đưa đi bệnh viện.” Ngay trong đêm đó, ông Ngô Hưng Hoa đã qua đời một cách bi thảm.
Chỉ hai ngày sau, một sự việc kinh hoàng khác lại xảy ra. Ngày 5 tháng 8, bà Biện Trọng Vân, phó hiệu trưởng trường Trung học Nữ sinh trực thuộc Đại học Sư phạm Bắc Kinh, đã bị Hồng vệ binh đánh chết trong một cuộc đấu tố. Đây là nhà giáo dục đầu tiên bị đánh chết trong Cách mạng Văn hóa trên toàn quốc.
“PHẢI VÕ MÀ!” – BÓNG MA TỬ THẦN BAO TRÙM GIỚI GIÁO DỤC
Trường Trung học Nữ sinh trực thuộc Đại học Sư phạm Bắc Kinh là một trường nữ sinh nằm ở quận Tây Thành, chỉ cách Quảng trường Thiên An Môn và Trung Nam Hải khoảng một cây số. Trước Cách mạng Văn hóa, đây là một trường trung học trọng điểm của Bắc Kinh, rất nhiều con gái của các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc đều theo học tại đây, bao gồm cả hai con gái của Mao Trạch Đông. Khi bà Biện Trọng Vân bị đánh chết, con gái của Lưu Thiếu Kỳ là Lưu Đình Đình và con gái của Đặng Tiểu Bình là Đặng Dung cũng đang học tại trường này.
Ngày 18 tháng 8, Mao Trạch Đông đã duyệt binh và tiếp kiến hàng triệu Hồng vệ binh tại Thiên An Môn. Nhiếp Nguyên Tử, người viết tờ đại tự báo đầu tiên, được sắp xếp lên lầu thành Thiên An Môn để nhận sự tiếp kiến của Mao Trạch Đông. Một Hồng vệ binh khác cũng được lên lầu thành Thiên An Môn là Tống Bân Bân, đến từ chính ngôi trường đã đánh chết phó hiệu trưởng của mình.
Khi Tống Bân Bân đeo băng tay Hồng vệ binh cho Mao Trạch Đông, Mao đã hỏi tên cô. Biết cô tên là Tống Bân Bân (彬彬, có nghĩa là văn nhã, lịch sự), Mao Trạch Đông hỏi: “Có phải là Bân trong ‘văn chất bân bân’ không?”. Tống Bân Bân đáp: “Dạ phải ạ”. Mao Trạch Đông nói: “Phải võ mà!”. Ông ta muốn võ đấu. Kể từ đó, Tống Bân Bân đổi tên thành Tống Yếu Vũ (Tống muốn võ).
Sau cuộc tiếp kiến ngày 18 tháng 8, bạo lực của Hồng vệ binh đã leo thang toàn diện. Cả nước đều “phải võ mà”. Bắc Kinh lúc đầu mỗi ngày có vài chục người, sau đó là vài trăm người bị đánh chết.
BI KỊCH CỦA KẺ THI HÀNH VÀ VÒNG LẶP CỦA LỊCH SỬ
Bí thư khoa Ngữ văn Trình Hiền Sách, người đã trốn trong nhà vệ sinh nữ trong ngày đầu tiên của bạo lực ở Đại học Bắc Kinh, cũng đã bị đưa vào đội cải tạo lao động. Ông và vài “yêu ma quỷ quái” khác của khoa Ngữ văn mỗi ngày phải quét dọn ký túc xá sinh viên, dọn dẹp nhà vệ sinh. Họ làm việc rất chăm chỉ, nhà vệ sinh được dọn dẹp vô cùng sạch sẽ. Ngoài việc liên tục có sinh viên đến “giữ gìn” kiểu tóc âm dương cho họ, ông Trình Hiền Sách vẫn kiên cường sống sót một cách khó khăn.
Nhưng đến ngày 24 tháng 8, khi các sinh viên đại học bắt đầu đưa phong trào bạo lực và giết chóc do Hồng vệ binh trung học khởi xướng vào toàn diện Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh, ông Trình Hiền Sách bắt đầu thực sự bị đánh đập. Hồng vệ binh dùng chiếu cói cuộn ông lại rồi dùng gậy đánh loạn xạ.
Các trường đại học lúc này đã bước vào một giai đoạn giết chóc và phá hoại có tổ chức, có lãnh đạo. Ngày 31 tháng 8, Mao Trạch Đông lần thứ hai tiếp kiến Hồng vệ binh. Ngày hôm sau, 1 tháng 9, số người bị Hồng vệ binh đánh chết ở Bắc Kinh đã đạt đến đỉnh điểm, chỉ trong một ngày đã có 300 người bị đánh chết.
Ngày 2 tháng 9, ông Trình Hiền Sách mang theo một chai rượu mạnh và hai chai thuốc trừ sâu DDVP, đi đến Hương Sơn, cách Đại học Bắc Kinh khoảng 10 cây số về phía Tây Bắc, và tự sát trong một khu rừng.
Tiền thân của Đại học Bắc Kinh được thành lập vào năm 1898 trong phong trào Duy Tân của triều Thanh, là đại diện cho khoa học và văn minh hiện đại của Trung Quốc. Nhưng trong Cách mạng Văn hóa, ngôi trường này đã trở thành một nơi sỉ nhục và tàn bạo nhất đối với văn minh hiện đại, trở thành ngòi nổ dẫn dắt toàn xã hội nhanh chóng sa đọa và biến chất.
Điều đáng để suy ngẫm là, ông Trình Hiền Sách mà chúng ta vừa nói đến, ông là một trong những nạn nhân đầu tiên của Cách mạng Văn hóa ở Đại học Bắc Kinh. Nhưng vào năm 1951, tức là 15 năm trước sự kiện này, ông đã làm gì? Ông đã lãnh đạo các cán bộ của Đại học Bắc Kinh thành lập một đoàn cải cách ruộng đất ở Giang Tây, và chính ông làm phó đoàn trưởng.
Lúc đó, ở một ngôi làng tại Giang Tây, có một ông thợ may già từ Thượng Hải đến. Ông thợ may này đã dành cả đời làm việc ở Thượng Hải, tích cóp được một ít tiền. Khi không còn sức làm việc nữa, ông rời Thượng Hải về nông thôn, mua một ít ruộng đất ở Giang Tây để dưỡng già. Kết quả, vì có ruộng đất, ông bị quy là địa chủ, bị bắt và bị xử bắn.
Khi đó, trong đoàn cải cách ruộng đất có cán bộ của Đại học Bắc Kinh cảm thấy không thể hiểu nổi. Dù sao họ vẫn còn giữ lại được một chút tư tưởng và chính kiến độc lập của một trường đại học hàng đầu. Họ đã đặt câu hỏi tại sao lại có thể giết một người như vậy. Nhưng chính ông Trình Hiền Sách đã “khai sáng” cho người cán bộ này. Ông nói: “Anh không thể dựa vào tiêu chuẩn đạo đức, đặc biệt là tiêu chuẩn đạo đức cũ, để đối nhân xử thế.”
Đối với Trình Hiền Sách, đạo đức còn có mới và cũ. Ông nói: “Chủ nghĩa nhân đạo, thuyết nhân tính, những thứ đó có thể là động cơ ban đầu khi chúng ta tham gia cách mạng. Nhưng chính chủ nghĩa nhân đạo và thuyết nhân tính lại là trở ngại lớn nhất khiến chúng ta không thể một lòng một dạ với Đảng. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất đặt ra trước mắt chúng ta là phải triệt để phê phán chủ nghĩa nhân đạo và thuyết nhân tính.”
Hãy nhìn xem, những người tham gia vào cuộc tàn sát dưới danh nghĩa cách mạng, trong khi hủy diệt tất cả kẻ thù, họ cũng đang tự biến mình thành một loại người khác, một loại người không có đạo đức, không có nhân tính. Những nhà cách mạng này, trong những làn sóng cách mạng nối tiếp nhau, thực chất cũng không thể nào vì mình đã từng đi theo Đảng cách mạng mà được dung thứ.
Không cần nói đến ai khác, hãy nói đến nhà lãnh đạo tối cao của quốc gia, người đã kiên quyết thực thi các chính sách từ chiến dịch chỉnh phong ở Diên An, đến chống phái hữu, bốn thanh lọc – Lưu Thiếu Kỳ. Lần này, ông lại trở thành mũi nhọn chính của Cách mạng Văn hóa. Cuối cùng, vào năm 1966, ông đã bị Mao Trạch Đông dùng một “ngón tay út” đánh đổ, ba năm sau thì bị bức hại đến chết.
NỖI ĐAU KHÔNG THỂ NGUÔI NGOAI VÀ SỰ IM LẶNG CỦA LỊCH SỬ
Sau khi phó hiệu trưởng Biện Trọng Vân bị đánh chết, chồng bà là ông Vương Tinh Nghiêu đã dùng tiền lương mấy tháng để mua một chiếc máy ảnh đắt tiền, chụp lại di ảnh của người vợ quá cố. Bức ảnh đó đã trở thành một ghi chép lịch sử chân thực nhất về thời đại kinh hoàng ấy.
Năm 1973, ủy ban cách mạng của trường không thừa nhận đây là một vụ bạo lực đánh chết người, nhưng đã đưa cho gia đình bà Biện 400 đồng. Năm 1976, Mao Trạch Đông qua đời, Cách mạng Văn hóa kết thúc. Ông Vương Tinh Nghiêu đã nhiều lần yêu cầu dùng 400 đồng đó để dựng một tấm bia, hoặc dù chỉ là trồng một hàng cây nhỏ trong ngôi trường nơi bà Biện từng công tác và bị đánh chết, để tưởng niệm sự kiện bi thảm này. Nhưng yêu cầu đó hoàn toàn không thể thực hiện được.
Đồng thời, ông Vương Tinh Nghiêu cũng bắt đầu tìm cách thông qua con đường pháp luật để đòi lại công lý cho vợ mình. Nhưng đến ngày 25 tháng 12 năm 1989, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã quyết định giữ nguyên quyết định không khởi tố của Viện Kiểm sát quận Tây Thành, Bắc Kinh. Quốc gia này không có một chút chuẩn bị nào để đối mặt và suy ngẫm về giai đoạn lịch sử này. Con đường đòi công lý của ông Vương Tinh Nghiêu, cũng như của vô số gia đình nạn nhân trong và ngoài Cách mạng Văn hóa, dường như đã đi đến hồi kết.