Chớ lấy thân danh oán trách trời
Hàn, Bành mấy họ máu đào rơi
Một lòng báo nước lừng chinh chiến
Trăm thắng Liêu lui, Lạp hết đời
Địa sát Thiên cương đà hết sáng
Gian thần tặc tử chẳng im hơi
Nếu hay đầu độc vùi thân xác
Học phép rong thuyền Phạm Lãi chơi.

(Trích “Thuỷ Hử”)

Ấy là bài Đường luật mà người chép sử đời sau cảm khái, tiếc thương cho vị anh hùng bạc mệnh – Hô Bảo Nghĩa Tống Giang. Với huynh đệ vẹn tròn chữ Nghĩa, với Thiên tử giữ trọn lòng trung, những tưởng sau bao nhiêu khổ ải Tống Giang sẽ được hưởng vinh hoa phú quý, ngờ đâu lại bị gian thần ghen ghét, vùi xác dưới tầm Tụ Nhi. Có lẽ vì thế, Tống Giang đôi khi vẫn phải đeo cái tiếng là “ngu trung”. 

Người đọc Thuỷ Hử giận Tống Giang mà cũng thương Tống Giang: Sao không vẫy vùng nơi Thuỷ Bạc mà lại quy thuận triều đình? Sao bị hạ độc còn cố giữ lòng trung? Cả đời này, dường như Tống Giang vất vả mà không công, hao phí biết bao tâm lực để đến cuối cùng cả danh – lợi – tình đều không được hưởng. Người có biểu tự là “Công Minh” ấy vừa khéo lại hồ đồ lắm ư?

Nhưng có lẽ, cái sự “hồ đồ” của Tống Giang là sự hồ đồ đầy ý vị. Đọc kỹ những dòng nguyên tác Thuỷ Hử, chứ đừng chỉ xem phim người đời sau dựng vốn lược bỏ nhiều yếu tố thần kỳ, ta mới thấy được Thiên mệnh và ý nghĩa kiếp người của Tống Giang. Tống Giang một đời trung nghĩa nhưng chết thảm, trong vở kịch tưởng chừng ‘bất công’ này thảy đều là Thiên ý.

1. Tinh Tú giáng trần

“Thủy Hử” kể chuyện 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc, khí chất của từng người và cảnh ngộ khiến họ quy tụ về Lương Sơn. Mỗi người một thân thế, địa vị sang hèn khác nhau, nhưng truy ngược dòng thời gian lại thấy chung gốc tích. Triều hoàng đế Tống Nhân Tông, Hồng Thái Úy phụng mệnh đi cầu Thiên Sư trấn áp ôn dịch, vì cố chấp hiếu kỳ nên Thái uý lỡ tay thả yêu tà, thả ra Thiên Cang và Địa Sát tinh quân đang chịu tội tại Phục Ma Điện. Cuối cùng, các vị Tinh Tú Thần Quân đã lần lượt đầu thai xuống nhân gian và trở thành những nhân vật xuất chúng. Đây chính là lai lịch của 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc. 

Tống Giang lần đầu tiên xuất hiện trong Thuỷ Hử đã được ưu ái những dòng văn ngà ngọc. Hồi 17: Mỹ Nhiệm Công dùng mẹo lừa Sáp Sí Hổ; Tống Công Minh vì tình thả Tiều Thiên Vương viết:

“Hà Đào ngẩng nom lên thì quả nhiên có một người Áp Ty ở trong huyện đương lững thững đi ra. Người ấy họ Tống tên là Giang, biểu tự là Công Minh, con thứ ba, nguyên quán ở Vận Thành, mặt đen, người thấp, thường gọi là Hắc Tam Lang Tống Giang, lại có tiếng là người hiếu đễ, bình sinh trọng nghĩa khinh tài, ai cũng gọi là Hiếu Nghĩa Hắc Tam Lang. Trên còn bố già là Tống Thái Công, mẹ thì mất sớm, có một người em tên là Thiết Phiến Tử Tống Thanh, cùng ở nhà với Thái Công, để trông nom vườn ruộng.

Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành, văn án tinh thông, sành nghề nha lại, tính thích chơi quyền chơi gậy, học được nhiều ngón võ, xưa nay lại hay kết nạp bọn hảo hán giang hồ, hễ ai đến đó, bất cứ thế nào, đều dung túng, chiều chuộng hết cả, đến khi ra đi lại giúp đỡ tiền nong tử tế. Nhất sinh coi rẻ đồng tiền. Hễ ai vay mượn hỏi xin là cho ngay không tiếc. Lại có tính hay làm ơn làm huệ, ai có việc gì ngang trái, là dàn xếp can ngăn, kỳ cho thỏa thuận mới thôi.

Thỉnh thoảng lại cho áo quan, phát vị thuốc, cứu người khổ giúp kẻ nghèo, đỡ người nguy cấp, thương kẻ khốn cùng, bởi thế nên khắp mặt Sơn Đông Hà Bắc, ai ai cũng tôn là Cập Thời Vũ Tống Công Minh, ý nói cũng như trận mưa phải thời, ở lưng trời tưới xuống để cứu muôn vật vậy”.

Chính nhờ lòng nhân nghĩa đó, Tống Giang thu phục được anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ, trở thành thủ lĩnh Lương Sơn. Tuy Tống Giang tự nhận mình “văn không yên nổi nước, võ không phục nổi người, tay không sức trói nổi con gà”, nhưng những hảo hán giỏi văn như Ngô Dụng, giỏi võ như Võ Tòng lại đồng lòng suy tôn ông làm chủ. 

Cũng bởi vì Tống Giang ngay từ đầu đã được chú định là “Tinh Chủ” (Chủ của các vì Tinh Tú), chép rõ trong thiên thư, nên những biến cố cuộc đời nối tiếp nhau như màn kịch soạn sẵn, từng bước đưa ông lên Thuỷ Bạc.

Những biến cố cuộc đời nối tiếp nhau như màn kịch soạn sẵn, từng bước đưa Tống Giang lên Thuỷ Bạc.

2. Cửu Thiên Huyền Nữ tiết lộ Thiên cơ

Tạo Hoá an bài con đường đến Lương Sơn của Tống Giang lắm điều ngang trái. Có thơ rằng:

Lòng thành giữ trọn đạo cương thường
Cát bụi giang hồ chẳng vấn vương
Rộng lượng dân tình nên mạt vận
Bao dung bằng hữu phải cùng đường
Quan gia trả hận đày lao ngục
Hảo hán đền ơn cướp pháp trường
Dấn bước phong trần lên thống lĩnh
Anh hùng quy tụ khắp muôn phương.

(Vịnh Thuỷ Hử – Tống Giang)

Câu “Rộng lượng dân tình nên mạt vận” nói về việc Tống Giang hào phóng cứu giúp mẹ con Diêm Bà Tích, chỉ là người dưng nước lã mà chu cấp tiền bạc cho Diêm Bà mai táng chồng, còn cưới Diêm Bà Tích để mẹ con cô ta có nơi nương tựa. Câu “Bao dung bằng hữu phải cùng đường” chỉ việc Tống Giang báo tin quan quân sắp truy bắt cho huynh đệ Tiều Cái kịp thoát nạn. Về sau, chỉ vì lá thư kể lể ân tình của Tiều Cái mà Tống Giang bị Diêm Bà Tích bắt thóp, đe dọa, đòi hỏi đủ điều vô lý, dẫn đến cái án giết người, đẩy Tống Giang vào chỗ “cùng đường mạt vận”. Nghe lời cha, Tống Giang thà chịu cảnh tù đày chứ không đi làm giặc. Nhưng đâu ngờ ở Giang Châu, bài thơ đề trên lầu Tầm Dương bị Hoàng Văn Bính suy diễn xuyên tạc, khép Tống Giang vào tội mưu phản.

Người đầu tiên hé lộ thiên cơ, rằng Tống Giang sẽ lên ngôi thủ lĩnh Lương Sơn chính là Cửu Thiên Huyền Nữ. Lại nói chuyện sau khi Tống Giang được các huynh đệ Lương Sơn Bạc cướp pháp trường cứu thoát, lên Thuỷ Bạc được mấy ngày thì mong nhớ cha già, lòng riêng áy náy. Chẳng ngờ về thăm cha bị quan binh đuổi bắt, may gặp được miếu Cửu Thiên Huyền Nữ hiển linh che chở nên thoát nạn. 

Hồi 41: Hoàn đạo đồn, nhận ba quyền thiên thư; Tống Công Minh gặp Cửu Thiên Huyền Nữ có viết:

“Nương Nương phán bảo với Tống Giang rằng:

– Tống Tinh Chủ ơi! Ta truyền cho ngươi ba cuốn Thiên Thư này, ngươi khá thay Trời làm Đạo, làm chúa phải hết lòng trung nghĩa, làm tôi phải hết sức yêu dân, bỏ đường tà theo đường chính, chớ nên xao nhãng sai lầm mới được.

Tống Giang cúi lạy vâng lời, Nương Nương lại phán rằng:

– Đức Ngọc Hoàng nhận thấy Tinh Chủ chưa dứt lòng ma, chưa tu trọn Đạonên tạm phạt xuống nơi trần thế, không bao lâu lại được trở về Tiên Cung. Vậy Tinh Chủ chớ nên đổi dạ thay lòng, mà lỡ ra tội xuống Phong Đô, thì ta đây cũng khó lòng cứu nổi. Ba cuốn sách này phải xem cho kỹ, mà thuộc cho kỹ, chỉ nên cùng với sao Thiên Cơ mà xem, còn không thể cho người nào khác xem được. Khi công việc xong tất phải đốt đi, chớ để làm chi ở nơi trần thế, những lời ta dặn, phải nhớ chớ quên. Hiện nay tiên phàm đôi ngả không thể ở lâu, vận ngươi nên mau mau trở về, rồi sau đây lầu ngọc cửa vàng, tất lại có phần hậu hội

Nói đoạn sai Đồng Nữ kíp dẫn Tống Giang về, Tống Giang lạy Nương Nương, rồi theo chân lũ Thanh Y Nữ Đồng, mà đi ra ngoài điện.

Khi đi qua cửa chấn song, ra đến bên cầu đá, Thanh Y bảo với Tống Giang rằng:

– Vừa rồi Tinh Chủ bị cơn nguy hiểm, nếu không có Nương Nương bảo hộ, thì tất là bị bắt… Sáng ngày mai thì Tinh Chủ khắc được thoát nạn ấy ngay. Kìa Tinh Chủ nom dưới cầu có hai con Rồng đùa giỡn với nhau kìa.

Tống Giang đứng tựa lan can, quay xuống khe xem, quả thấy hai con Rồng đương lượn đùa dưới nước, rất là lạ mắt xưa nay. Chàng đương xem ngắm ngẩn ngơ, bỗng bị Thanh Y đẩy ngã xuống nước, rồi kêu lên một tiếng, đập đầu phải cạnh bàn thờ, mà mở mắt ra nom thì là giấc mộng.

Bấy giờ Tống Giang ngó cổ nom ra. Thấy bóng trăng đương sáng, trời đêm chừng canh ba, bàn tay chàng vẫn có ba hạt táo, mà trong bọc cũng có ba quyển Thiên Thư, mùi rượu thơm tho vẫn còn trong miệng, thực là một sự quái kỳ, không biết ra sao mà đoán được?”

Cuộc gặp gỡ chóng vánh với Cửu Thiên Huyền Nữ nhuốm màu huyền ảo, hư hư thực thực, tưởng mơ mà thực, đã tiết lộ toàn bộ số mệnh cuộc đời của Tống Giang. 

Thứ nhất, Cửu Thiên Huyền Nữ nêu rõ lý do Tống Giang giáng sinh: “Đức Ngọc Hoàng nhận thấy Tinh Chủ chưa dứt lòng ma, chưa tu trọn Đạonên tạm phạt xuống nơi trần thế”. 

Thứ hai, Cửu Thiên Huyền Nữ chỉ ra con đường giúp Tống Giang trở về Thiên giới: “…ngươi khá thay Trời làm Đạo, làm chúa phải hết lòng trung nghĩa, làm tôi phải hết sức yêu dân, bỏ đường tà theo đường chính, chớ nên xao nhãng sai lầm mới được”.

Thứ ba, Cửu Thiên Huyền Nữ cảnh báo Tống Giang về hậu quả của hành vi bất trung bất nghĩa: “Vậy Tinh Chủ chớ nên đổi dạ thay lòng, mà lỡ ra tội xuống Phong Đô, thì ta đây cũng khó lòng cứu nổi”. Theo nhiều kinh sách tôn giáo, nhất là của Phật Giáo, Phong Đô chính là Địa Ngục luyện tội, hành hình các linh hồn tội lỗi. Phong Đô nghĩa nôm na là kinh thành phong bế, bị phong hóa, dần dần bị tiêu hủy. Khởi nguyên Phong Đô được hình thành bởi những chấp trước dục vọng của con người nơi thế gian, chấp trước vào những thứ hư huyễn nơi thế tục chẳng chịu buông bỏ như nhà cửa, ruộng vườn, vợ chồng con cái thân tộc, quyền lực, của cải vật chất… Cửu Thiên Huyền Nữ nhắc nhở Tống Giang chớ bị mê hoặc bởi dục vọng vào danh – lợi – tình nơi thế tục mà ôm lòng tà vạy, phản nghịch, sẽ bị rơi rớt xuống địa ngục còn khủng khiếp hơn. 

Như vậy, từ lời dặn dò của Cửu Thiên Huyền Nữ, nguồn gốc và con đường trở về của sinh mệnh Tống Giang đã trở nên minh bạch. Vốn là sao Thiên Cang trên Thượng giới, vì chưa dứt lòng ma, chưa tu trọn Đạo nên Tống Giang mới giáng trần để hoàn thành nốt quá trình tu luyện. Quá trình tu luyện ấy chính là làm chúa (thủ lĩnh Lương Sơn) phải hết lòng trung nghĩa, làm tôi (của triều đình) phải hết sức yêu dân, trung quân ái quốc, bỏ tà theo chính. Nếu kiên trì làm được như vậy, thì đến cuối con đường, Tống Giang sẽ công thành viên mãn, siêu thăng về Thiên giới: “rồi sau đây lầu ngọc cửa vàng, tất lại có phần hậu hội…”

Tất nhiên, hành trình tu luyện sẽ chẳng thể dễ dàng. Nếu dễ dàng đâu còn gọi là “tu luyện”? Trên con đường phản bổn quy chân ấy, Tống Giang sẽ phải nhẫn nhục, sẽ phải chịu khổ, dẫu bị thiệt thòi, bức hại vẫn kiên định giữ lòng trung. Người bình thường là “thất phu chịu nhục, tuốt kiếm tương đấu”. Nhưng Tống Giang không được làm như vậy.

3. Nhẫn nhục tu luyện, trở về Thiên giới

Trước khi gặp Cửu Thiên Huyền Nữ, Tống Giang tuy được mệnh danh là “Hiếu Nghĩa Hắc Tam Lang” nhưng vẫn phạm điều đại ác. Giết Diêm Bà Tích là một; giết cả nhà Hoàng Văn Bính là hai. Dù hai kẻ này nanh ác bất lương, nhưng hành động của Tống Giang cũng xuất phát từ tâm oán hận, nóng nảy báo thù. Tuy nhiên, sau cuộc gặp gỡ với Cửu Thiên Huyền Nữ, nhất là sau khi quy thuận triều đình, ta thấy Tống Giang hết lần này lần khác phải cúi đầu khuất nhục, có oán mà không báo. 

Khi Tống Giang vâng mệnh triều đình chuẩn bị đi dẹp giặc Liêu, tên quan phát khao ở Viện Trung thư ăn bớt rượu thịt của quân lính, còn lớn tiếng nhiếc móc huynh đệ Lương Sơn là “giặc chết chém mọc đầu”, “thói phản nghịch Lương Sơn”. Viên hiệu uý Lương Sơn không thể chịu nhục, vung đao giết chết hắn. Hồi 12: Tống Giang vâng mệnh đánh giặc Liêu, Trạm Trần Kiều rơi lệ chém lính có viết:

“Tống Giang khóc nói:

– Ta từ lúc lên Lương Sơn Bạc, anh em lớn nhỏ chưa phải bỏ một ai. Nay thân ta phải chịu quan trên cai quản, dù chỉ một bước cũng không thể theo ý muốn của mình. Dẫu rằng ngươi chưa bỏ hết được tính nóng nảy, nhưng xử sự bây giờ không thể như cách trước đây.

Viên hiệu uý nói:

– Tiểu nhân xin chịu tội chết!

Tống Giang sai dọn cơm rượu cho viên hiệu uý ăn uống thật no say rồi bảo trèo lên cây thắt cổ. Xong đó sai chặt đầu thị uy. Lại sai thu nhặt thủ cấp, thi thể của tên quan phát khao khâm liệm nhập quan quách cẩn thận, sau đó viết văn thư trình về viện trung thư, việc ấy không nói nữa”.

Uất ức làm sao! Đau xót làm sao! Tống Giang coi huynh đệ Lương Sơn như chân tay ruột thịt, chém một người cũng như cắt ruột cắt gan ông vậy. Khối nhục này phải nuốt vào trong. Người bình thường đâu thể nhẫn việc này? Người bình thường sẽ như viên hiệu uý, thà giết người đền mạng chứ không chịu nhục.

Tống Giang phải nhẫn nhục, đó là con đường “phản bổn quy chân” của ông.

Trước kia ở Lương Sơn Bạc:

“Nước non riêng thú từ đây,
Một sảnh Tụ Nghĩa mấy tay anh hùng,
Đua nhau ngang dọc vẫy vùng,
Bỏ chi cá chậu chim lồng mà chơi!”

Còn giờ đây: 

Nay thân ta phải chịu quan trên cai quản, dù chỉ một bước cũng không thể theo ý muốn của mình”.

Sao phải khổ thế, Tống Giang?! Có lẽ, đây cũng là câu Tôn Ngộ Không tự nhủ lòng mình khi mới theo hộ vệ Đường Tăng, phải chịu quản thúc. Trước đây xưng hùng xưng bá, là Mỹ Hầu Vương, Tề Thiên Đại Thánh, nay phải bái một ông sư ngốc nghếch làm thầy! Không những thế, làm ơn còn mắc oán, rõ là giúp sư phụ diệt giặc cướp mà còn bị mắng nhiếc là ác nhân! Đã thế, cóc thèm lấy kinh nữa! 

Bực mình qua xơi chén nước ở Đông Hải Long Cung, Tôn Ngộ Không nhìn thấy bức tranh “Ba lần dâng giày ở cầu Dĩ”, nghe chuyện Trương Lương phải nhẫn nại nhún mình rồi mới được Hoàng Thạch Công truyền đạo… Long Vương nói: “Đại Thánh ạ, ngài không theo Đường Tăng, không chịu khó nhọc, không nghe dạy bảo, cuối cùng vẫn chỉ là một con yêu quái mà thôi, thành chính quả sao được!”; “Đại Thánh nên xét kỹ, đừng thích phóng khoáng mà để lỡ các công việc về sau nữa”. Ngộ Không bèn đáp: “Thôi ngài đừng nói nữa, ta đi hộ vệ Đường Tăng đây”.

Tống Giang “phải chịu quan trên cai quản, dù chỉ một bước cũng không thể theo ý muốn của mình”, chẳng phải cũng là một ý tứ này?

Có người nói Tống Giang vì không chịu được cái tiếng “làm giặc”, nên biết đâm đầu vào chỗ chết vẫn quy thuận triều đình. Hành động ấy là xuẩn ngốc, là vì danh; hay là khôn ngoan, là vì tu luyện, sự khác biệt tinh tế như một sợi tơ mỏng. 

Phải biết rằng Tống Giang yêu quý huynh đệ của mình như ruột thịt. Mỗi lần thu phục được hảo hán nào đó, ông lại tự tay cởi trói, khoác áo bào, lạy mừng, thậm chí còn thành thực nhường ngôi trại chủ Lương Sơn. Mỗi khi một huynh đệ Lương Sơn ngã xuống trên chiến trường, ông lại đau đớn khóc thương đến sinh bệnh. Vậy nên thiết nghĩ, nếu chỉ vì “danh”, mà chuốc nỗi khuất nhục khi bị tiểu nhân đè nén, và nỗi đau xé thịt khi huynh đệ lìa tan, thì một người bình thường đong đếm lợi hại sẽ về thẳng Lương Sơn làm chúa giặc cho chóng! Hay khi vua Liêu tặng lễ vật hậu hĩnh, quan cao tước lớn, Tống Giang đã nghe lời Ngô Dụng quy hàng cho xong! 

Nhưng Tống Giang đã dùng ý chí mạnh mẽ để vượt qua cảm xúc thường tình, giữ trọn lòng trung nghĩa.

Và cả tới khi bị ban rượu độc, Tống Giang chỉ biết là sứ giả vua ban, chứ không biết là bị gian thần hãm hại, Tống Giang vẫn không mảy may oán hận triều đình. Sau bao năm tháng xông pha trận mạc, đánh nam dẹp bắc, vào sinh ra tử, vất vả một đời, phải chứng kiến huynh đệ tan tác như chim nhạn lìa bầy… giờ đây bị đối xử tệ bạc như vậy, người bình thường ai có thể nhẫn chịu nữa đây?! Có lẽ sẽ hét lên một tiếng, thề giết chết kẻ bội bạc. Nhưng Tống Giang vẫn đinh ninh lời dạy của Cửu Thiên Huyền Nữ: thay Trời hành đạo, trung nghĩa một lòng. 

Nếu chỉ đo lường được – mất nơi cõi người, Tống Giang đã một đời thua thiệt. Xem phim điện ảnh người đời nay dựng, hình ảnh Tống Giang quỵ luỵ hoàng đế, mà kẻ tạo phản như Phương Lạp lại oai phong lẫy lừng biết bao! Biết đâu rằng trong nguyên tác của Thi Nại Am, tiêu chuẩn đúng – sai, thiện – ác hoàn toàn khác. Nào là:

Ngôi báu xưa nay thật khó lay
Tiếm xưng danh hiệu họa nào tày
Võ Tòng dùng ngựa đâm Phương Mạo
Gian ác xem gương thủ cấp này.

Rồi thì:

Tà gian lang miếu nhìn thêm thẹn
Tiết nghĩa sa trường chết cũng thơm
Mai hậu Trung Sơn làm nghĩa quỷ
Đâu như Phương Lạp, chẳng người chôn.

Nếu không phải Thần linh bao phen hiển linh cứu giúp, Tống Giang đã bao lần bị bắt, bị giết, bị hãm vào tử địa, nào phải đợi uống rượu độc rồi mới chết. Phải chăng đến đây, xét thấy Tống Giang đã tu tâm tính đạt tiêu chuẩn trở về Thiên giới, Ngọc Hoàng mới triệu ông về Trời? 

Miếu thờ Tống Giang quanh năm nghi ngút khói hương, muôn phần linh ứng, đúng như câu “sinh vi tướng, tử vi Thần” (sống làm tướng, chết làm Thần). Phải chăng trên bề mặt là gian thần hãm hại, kỳ thực là Tống Giang đã mãn hạn hồi thăng? Như lời tiên tri của Cửu Thiên Huyền Nữ: “rồi sau đây lầu ngọc cửa vàng, tất lại có phần hậu hội…”

Quả đúng là:

Thiên Cang tận dĩ quy thiên giới
Địa Sát hoàn ứng nhập địa trung
Thiên cổ vi Thần giai miếu thực
Vạn niên thanh sử bá anh hùng.

Dịch:

Thiên Cang đã khuất về thiên giới
Địa Sát lại theo xuống đất cùng
Muôn thuở Thần linh đều hưởng tế
Vạn năm sử sách rạng anh hùng.

(Trích “Thuỷ Hử”)

Thanh Ngọc