Giao hưởng số 6, cung Fa trưởng, Op. 68, hay còn gọi là Giao hưởng Đồng Quê, là bản giao hưởng nổi tiếng của nhà soạn nhạc vĩ đại người Đức Ludwig van Beethoven. Bản nhạc truyền tải một niềm hy vọng, niềm hân hoan của tình yêu cuộc sống, mà theo đó là biết bao những rung cảm lãng mạn và vô cùng ngọt ngào.
Giao hưởng số 6 được hoàn thành vào năm 1808. Đây là một tác phẩm trong số các tác phẩm hiếm hoi của Beethoven mang tính chất âm nhạc chương trình. Tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên vào ngày 22 tháng 12 năm 1808, tức là chỉ sau 6 hoặc 5 ngày sinh nhật lần thứ 38 của nhà soạn nhạc lớn. Bản giao hưởng được trình diễn trong buổi hòa nhạc kéo dài tới bốn tiếng, cùng với một bản giao hưởng vĩ đại khác của tác giả, bản số 5.
Beethoven đem lòng yêu cô học trò xinh đẹp Theresa de Brunowick, con gái một điền chủ người Hungary. Nhờ sự khuyến khích của cô gái, ông sáng tác bản giao hưởng Đồng quê (rất tiếc Beethoven lầm tưởng đó là tình yêu và niềm hy vọng kết hôn của ông đã tan vỡ sau khi cô gái kia khước từ lời tỏ tình của Beethoven).
Bản 6 hoàn thành gần cùng lúc với bản giao hưởng số 5 nhưng đây là một tác phẩm có nội dung và tính chất hoàn toàn khác bản giao hưởng số 5. Trong bản giao hưởng số 5, tất cả đều căng thẳng đến cao độ: bằng những phương tiện âm thanh hùng vĩ, nó phản ánh cuộc đấu tranh và niềm vui chiến thắng. Còn bản giao hưởng Đồng Quê, xét về nội dung âm nhạc thôn dã cũng như tiêu đề của nó là một loạt những bức tranh thanh bình. Beethoven có nói rằng bản giao hưởng Đồng Quê là sự truyền đạt những cảm xúc nảy sinh do tiếp xúc với thế giới thiên nhiên và cuộc sống thôn dã nhiều hơn là bức tranh phong cảnh bằng âm thanh. Tuy vậy, trong bản giao hưởng này, chúng ta vẫn thấy rõ tính chất hội họa đậm nét của nó.
Tác phẩm gồm 5 chương:
Chương 1: Allegro ma non troppo
Chương 2: Andante molto mosso
Chương 3: Allegro
Chương 4: Allegro
Chương 5: Allegretto
Clip là tròn vẹn tác phẩm được biểu diễn bởi dàn nhạc West–Eastern Divan Orchestra và nhạc trưởng chỉ huy Daniel Barenboim:
Chương 1 bắt đầu bằng những nét nhạc chan hòa lãng mạn, chứa đầy niềm vui và sự yên bình, lột tả cảnh làng quê thiên nhiên thơ mộng. Và chương nhạc được trang trí bởi rất nhiều họa tiết âm nhạc. Beethoven xây dựng kết cấu cho dàn nhạc bằng nhiều lần lặp lại các họa tiết rất ngắn mang đầy cảm xúc tình yêu.
Chương 2 là một chương sonata khác, lần này là nhịp 12/8 và trong giọng Si giáng trưởng. Nó bắt đầu với các chuỗi chơi một mô-típ bắt chước rõ ràng làn nước chảy. Phần cello được chia, chỉ có hai người chơi, chơi các nốt nước chảy, và các ô nhạc còn lại chơi chủ yếu là các nốt pizzicato cùng với các âm bass đôi.
Về phía cuối là một cadenza cho các nhạc cụ Gỗ gió bắt chước tiếng kêu của chim. Beethoven giúp xác định một cách hữu ích các loài chim trong bản nhạc: nightingale (sáo), chim cút (oboe) và chim cu gáy (hai clarinet).
Chương 3 là một scherzo trên nhịp 3/4, trong đó mô tả điệu nhảy dân gian và vui chơi. Nó nằm trong giọng Fa trưởng, trở về với cung nhạc chính của bản giao hưởng. Chương này là một phiên bản thay đổi của hình thức thông thường cho scherzi, trong đó bộ ba xuất hiện hai lần thay vì chỉ một lần, và sự xuất hiện thứ ba của chủ đề scherzo bị cắt ngắn. Có lẽ để phù hợp với sự sắp xếp khá rộng rãi này, Beethoven đã không đánh dấu sự lặp lại nội bộ thông thường của scherzo và bộ ba. Theodor Adorno xác định scherzo này là mô hình cho các scherzos của Anton Bruckner.
Sự trở lại cuối cùng của chủ đề truyền tải một bầu không khí náo động với nhịp độ nhanh hơn. Chương nhạc kết thúc đột ngột trong trạng thái vui tươi tưng bừng.
Chương 4, trong giọng Fa thứ, mô tả một cơn giông bão dữ dội với chủ nghĩa hiện thực gay cấn, xây dựng từ một vài giọt mưa đến một cao trào lớn với sấm sét, sét, gió lớn và mưa. Cơn bão cuối cùng đã qua, với một tiếng sấm thỉnh thoảng vẫn vang lên từ xa. Có một sự chuyển tiếp liền mạch vào chương cuối cùng. Chương này tương đồng với tác phẩm của Mozart trong Bộ ngũ tấu đàn dây của ông trên giọng Sol thứ K. 516 năm 1787, tương tự như vậy mở đầu cho một chương cuối cùng thanh thản với phần giới thiệu dài đầy cảm xúc.
Chương cuối, trong giọng Fa trưởng, và trên nhịp 6/8. Chương nhạc ở dạng sonata rondo, nhấn mạnh một chủ đề tám thanh đối xứng, trong trường hợp này đại diện cho bài hát tạ ơn của các mục đồng.
Coda bắt đầu lặng lẽ và dần dần xây dựng đến một đỉnh cao ngây ngất cho toàn bộ dàn nhạc (trừ “nhạc cụ bão”) với những cây đàn violin đầu tiên chơi bộ ba rất nhanh tremolo trên cao F. khe khẽ; hầu hết các dây dẫn làm chậm tiến độ cho đoạn nhạc này. Sau một thời gian ngắn ngủi, tác phẩm kết thúc với hai hợp âm Fa trưởng mạnh mẽ.
Nhìn chung, chương nhạc là một niềm hy vọng, niềm hân hoan của tình yêu cuộc sống, mà theo đó là biết bao những rung cảm lãng mạn và vô cùng ngọt ngào.