Lời toà soạn: Lịch sử 5.000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Á Đông gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
Tiêu Hà là thừa tướng khai quốc của nhà Hán. Ngày nay, sau hơn 2.000 năm, cái tên Tiêu Hà vẫn được người người biết tới. Có một câu nói rất nổi tiếng liên quan đến ông: “Thành cũng Tiêu Hà, bại cũng Tiêu Hà”. Xuất xứ của câu nói ấy thực ra là một câu chuyện dài…
Cuộc đời Tiêu Hà được ghi chép lại trong “Sử ký” và lưu truyền ở “Hán thư”. Năm 202 TCN, sau khi chiến thắng Hạng Vũ, thiên hạ bắt đầu an định, Lưu Bang đại phong công thần. Khi ấy, ở Nam Cung Lạc Dương xảy ra một cuộc bàn cãi tranh công.
Kết quả, nói về công lao, Tiêu Hà đứng đầu. Xếp thứ bậc quan tước, lại là Tiêu Hà số một. Cuối cùng, Tiêu Hà không chỉ được phong làm Tán hầu, thực ấp 8 nghìn hộ, còn được hưởng vinh dự cực đỉnh là đeo kiếm lên điện, đường hoàng vào triều.
Tiêu Hà xuất thân văn lại, không chút công lao chiến trường, Lưu Bang lại khăng khăng đem Tiêu Hà xếp trên các võ tướng mặc giáp cầm binh, vào sinh ra tử. Quan nội hầu Ngạc Quân thấy các tướng không phục, bèn đứng lên nói rằng Tiêu Hà là công lao vạn thế, mà các võ tướng chỉ là công lao một ngày. Lời nói này tuy có chút khoa trương, cũng không có gì không hợp với ý của Lưu Bang, nhưng luận về công lao khai cơ dựng nên nhà Hán, Tiêu Hà thực sự công quả không phai mờ.
Chế định luật pháp 9 chương cho nhà Hán
Sử chép, Tiêu Hà sinh ra do cảm ứng Mão tinh. Mão tinh, chủ về chuyện ngục sự. Sao Mão tinh sáng thì thiên hạ tố tụng, ngục tù công bằng. Sao Mão tinh tối thì thiên hạ hình phạt lạm dụng bừa bãi. Thời Tần, Tiêu Hà làm Đao bút lại, thời Hán làm Thừa tướng. Ông căn cứ theo luật nhà Tần, đặt ra luật pháp 9 chương cho nhà Hán, giải quyết các sự việc tố tụng, ngục tù trong thiên hạ, thực sự ứng với điềm báo của sao Mão tinh.
Năm 209 TCN, Lưu Bang khởi binh ở huyện Bái, Tiêu Hà dốc sức giúp Lưu Bang làm Bái Công. Tiêu Hà đi theo Lưu Bang cũng chẳng phải đơn thương độc mã, mà đem theo mấy chục người họ hàng thân quyến. Sau này hai quân Hán Sở đối đầu, lúc quân Hán nguy cấp, Tiêu Hà huy động tất cả con cháu, anh em mình, hễ ai có thể tòng quân được đều đưa ra tiền tuyến, có thể nói lòng trung sáng soi.
Tháng 10 năm 207 TCN, Lưu Bang đánh vào Hàm Dương. Tần vương Tử Anh xin hàng. Các tướng vào đến cung Hàm Dương, nhao nhao chạy đến các phủ khố cất giữ tài sản, vàng lụa, bận rộn cướp đồ quý báu trong cung Tần. Tiêu Hà lại vội vàng vận chuyển luật lệnh, bản đồ, sách ở phủ Thừa tướng và Ngự sử nước Tần.
Sau khi Hạng Vũ vào quan, Lưu Bang đem hết các báu vật trong cung Tần kê biên niêm phong lại, để lại hết cho Hạng Vũ. Nhưng ông lại đem hết thư tịch, bản đồ mà Tiêu Hà thu được về Hán Trung, trong đó không chỉ có luật pháp nước Tần còn có sách của Bách gia, “Kinh thi”, “Thượng thư” vốn đã bị đốt sạch ở dân gian. Ngoài ra còn có nhiều tư liệu quan trọng liên quan đến địa hình, quan ải, quận huyện, hộ khẩu, dân sinh, kinh tế trong thiên hạ. Đó chính là nguồn tư liệu cực kỳ quan trọng để sau này quân Hán tiến về phía đông tranh thiên hạ cùng quân Sở.
Sau khi quân Hán bình định Tam Tần, Lưu Bang và chư hầu tiến về phía đông đánh Sở. Tiêu Hà ở lại giữ Quan Trung, phò tá Thái tử, cai quản Lịch Dương. Ông dựng tông miếu xã tắc, đặt ra luật pháp điều lệnh, xây dựng cung thất, quản lý huyện ấp, vỗ yên bách tính, ổn định hậu phương. Điều ấy khiến cho quân Hán tuy ở trong thời gian dài ở yếu thế nhưng quân lương không đứt, nguồn binh sĩ không gián đoạn. Cuối cùng, lại nhờ tài năng trác tuyệt của Hàn Tín ở tiền tuyến, quân Hán lấy yếu thắng mạnh, giành được thắng lợi cuối cùng trước một Hạng Vũ thiên hạ vô địch.
Những việc ấy có thể nói lao khổ công cao nhưng sở dĩ nói “Thành cũng Tiêu Hà” chính là bởi Tiêu Hà đã vì triều Hán mà tiến cử Hàn Tín, danh tướng kiệt xuất, người duy nhất khi ấy có thể đánh bại Hạng Vũ, giành về thiên hạ cho Lưu Bang.
Tiến cử quốc sĩ, dưới trăng đuổi Hàn Tín
Năm 206 TCN, Lưu Bang được phong làm Hán vương, dẫn mấy vạn quân Hán, theo đường Tử Ngưu vào Hán Trung. Trong quân Hán phần nhiều có người đất Sở. Quân sĩ nửa đường đào ngũ bỏ trốn rất đông. Đại quân đến Nam Trịnh, có người đến báo cho Tiêu Hà, Trị túc đô úy Hàn Tín cũng đã tự bỏ đi. Tiêu Hà nghe báo, không kịp hỏi ý kiến Lưu Bang, vội vàng đuổi theo.
Hàn Tín vốn có chí lớn, mưu cao mà Lưu Bang không nhìn ra. Điểm này cũng không trách Lưu Bang được. Nó giống như lấy tầm nhìn của chim yến, chim sẻ vốn chỉ ở trong bụi rậm mà đo chí chim hồng, chim hộc tung cánh giữa trời cao vậy. Do đó, tuy ban đầu đã có Đằng Công, sau lại có Tiêu Hà dốc sức tiến cử, Lưu Bang vẫn chỉ cho Hàn Tín làm Trị túc đô úy, hỗ trợ Tiêu Hà xử lý việc quân lương. Hàn Tín tự thấy ở lại trong quân Hán thì không thể thi triển chí mình, nên mới quyết định bỏ đi.
Tiêu Hà đuổi kịp mời Hàn Tín quay trở lại, lập tức đi gặp Lưu Bang. Lưu Bang lúc đó tuy không thể nhìn ra hùng tài của Hàn Tín nhưng lại coi Tiêu Hà là cánh tay của mình, không thể rời xa một khắc. Thế là đối với can gián của Tiêu Hà, nói là nghe theo. Tiêu Hà nói Hàn Tín là bậc quốc sĩ vô song, Lưu Bang lập tức tỏ ý bái Hàn Tín làm tướng. Tiêu Hà nói, bái làm tướng thì quá nhỏ, muốn bái thì phải bái làm Đại tướng, Lưu Bang lập tức tìm Hàn Tín bái làm Đại tướng.
Tiêu Hà nói, bái Đại tướng không phải trò trẻ con, cần lập đàn, trai giới, chọn ngày, làm lễ. Lưu Bang vốn rất ghét sự phiền nhiễu của lễ nghi phép tắc, lại bất ngờ cười to đáp ứng. Cho đến ngày bái tướng, Hàn Tín đem sách lược lớn lên phía bắc bình định Tam Tần, tiến sang đông tranh thiên hạ đưa ra, Lưu Bang mới hết sức mừng rỡ và hối hận. Mừng rỡ vì có được bậc quốc sĩ vô song này, hối hận vì suýt mất một Đại tướng hùng tài.
Do đó nhìn lại nửa đời trước của Tiêu Hà, thực sự đã lập công lao hiển hách cho triều Hán, cuối cùng địa vị cao tột đỉnh của kẻ bề tôi, danh thành công toại. Chỉ đáng tiếc, Tiêu Hà không giữ được “Thành” cho đến trọn đời, mà lại để “Bại cũng Tiêu Hà” trở thành chân dung cuối đời của mình.
Cúi đầu trước Lã Hậu, lừa Hàn Tín vào cung
Năm 196 TCN, Triệu tướng quốc Trần Hy khởi binh tạo phản ở đất Đại, Lưu Bang đi chinh phạt. Một hôm, Lã Hậu triệu Tiêu Hà vào cung, nói với ông ta rằng Hàn Tín và gia thần âm mưu, làm nội ứng cho Trần Hy, mưu hại Lã Hậu và Thái tử. Đoạn, lệnh cho Tiêu Hà lừa Hàn Tín vào cung Trường Lạc để giết.
Tiêu Hà nghe lệnh, cảm thấy thật khó xử. Ông vốn biết Hàn Tín, cái ơn một bát cơm còn đem nghìn vàng báo đáp, cái nhục chui háng còn lấy đức báo. Làm người như vậy tất không có lòng làm phản. Lùi một bước mà luận, Hàn Tín lúc đó giữ binh đất Tề, quyền thiên hạ trong tay, nếu nói mưu phản, thì dễ như trở bàn tay.
Nhưng Hàn Tín lại kiên trì cho rằng, bội tín sẽ mang lại điềm xấu, nên không nghe theo lời can gián của Vũ Thiệp, Khoái Triệt, không mưu đồ tam phân thiên hạ. Cớ sao sau khi Lưu Bang nhất thống giang sơn, thiên hạ đại định, lại có thể làm phản cơ chứ? Lại lùi thêm một bước mà xét, đầu thời Hán, Hàn Tín được phong làm Sở Vương, ở đất Sở quê nhà, chính là hùm thiêng ở chốn sơn lâm.
Nếu làm phản, sao không nhân lúc đó liên kết với Hoài Nam vương Anh Bố, Lương vương Bành Việt mà mưu sự. Cớ gì Hàn Tín lại phải đợi đến lúc ở Trường An, bị giam lỏng, cáo bệnh không vào triều đã 6 năm để mưu phản đây? Chưa kể, kẻ ngoại ứng khi ấy chỉ là một viên tướng xoàng ở mãi đất Đại xa xôi, trong ứng ngoài hợp làm sao nổi? Do đó lời nói của Lã Hậu, cả về tình, về lý đều không thông.
Nhưng lúc này, Tiêu Hà lại không thể nói giúp cho Hàn Tín một câu. Tiêu Hà biết rõ cái họa của Hàn Tín thực sự là do công cao mà bị Lưu Bang, Lã Hậu nghi kỵ. Ngay từ 6 năm trước, Lưu Bang theo kế Trần Bình, khi giả du ngoạn Vân Mộng đã nảy ý giết Hàn Tín. Cuối cùng việc không thành là do Lưu Bang sợ uy vọng của Hàn Tín lớn, do dự mãi không quyết.
Nhưng Lã Hậu độc đoán chuyên chế, so với Lưu Bang thì nham hiểm vượt xa nhiều. Tiêu Hà tự liệu rằng, nếu không nghe lệnh bà ta e sẽ có mối lo về tính mạng. Cuối cùng, Thừa tướng nhà Hán uy thế lẫy lừng đã phải chịu khuất phục trước cái uy, cái độc ác của Lã Hậu, cắn răng mà lừa Hàn Tín vào cung.
Tiêu Hà vờ nói Trần Hy đã bị tiêu diệt, Lưu Bang khải hoàn, muốn Hàn Tín dù mang bệnh cũng vào chúc mừng. Hàn Tín tuy giỏi binh thiện chiến, nhưng lòng dạ quang minh lỗi lạc, không nghĩ đến Tiêu Hà sẽ lừa dối mình. Nhưng sau khi Hàn Tín vào trong nhà chuông ở cung Trường Lạc thì đã không còn trở ra nữa. Lã Hậu không chỉ giết Hàn Tín, mà còn tàn độc tột bậc, chu di tam tộc ông.
Tiêu Hà bị Lã Hậu cho vào tròng, đã mưa hại Hàn Tín, người mà Lưu Bang ngày đêm “sợ tài năng của hắn”. Nhưng Tiêu Hà tuy có hiền năng tiến cử nhân tài, có cơ trí nhận biết thời cuộc, tuy có tài năng trị quốc nhưng lần này lại không thể dự tính chu toàn được. Cái chết của Hàn Tín cũng là bước ngoặt cuộc đời ông.
Bị Lưu Bang nghi kỵ
Lưu Bang nhanh chóng biết tin. Khi ấy vẫn chưa kết thúc chiến sự đất Đại, liền sai người biểu dương công lớn Tiêu Hà, không chỉ gia phong thêm 5 nghìn hộ, còn bái làm Tướng quốc và phái 1 đô úy cùng 500 binh sĩ ngày đêm bảo vệ phủ Tướng quốc. Đúng lúc Tiêu Hà đang ở phủ mở đại yến đãi khách, thì Triệu Bình một mình đến thăm viếng.
Triệu Bình là Đông Lăng hầu của nước Tần. Tần vong, Bình lưu lạc thành kẻ áo vải, ở phía đông thành Trường An trồng dưa sinh sống. Triệu Bình nói với Tiêu Hà đại họa sẽ bắt đầu từ đây. Phong thưởng của vua không phải là ân sủng, mà là vỗ yên. Nha binh phái thêm, không phải là bảo vệ, thực tế là giám sát.
Cái chết của Hoài Âm hầu Hàn Tín, không làm cho Tiêu Hà được Lưu Bang tin tưởng hơn mà càng gây thêm sự nghi kỵ cho Lưu Bang. Cái đạo tránh họa bây giờ, chỉ có khước từ phong thưởng, đồng thời hiến hết tải sản cá nhân trong nhà, tất cả đều đem cho quân sử dụng. Tiêu Hà y theo kế hành sự, tuy gia tài tiêu tán hết những đã bảo được cái mạng nhất thời yên ổn.
Nhưng không bao lâu sau, tháng 7 năm đó, Hoài Nam vương Anh Bố khởi binh. Lưu Bang lại xuất binh thảo phạt. Trong thời gian đó mấy lầm sai người nghe ngóng Tướng quốc Tiêu Hà đang làm gì. Có mưu sĩ nói với Tiêu Hà rằng: “E là không lâu nữa ngài sẽ phải chịu cái họa diệt tộc. Địa vị ngài làm đến Tướng quốc, đã là tột bậc của kẻ bề tôi, không thể tăng thêm nữa. Mà ngài thay vua xử lý việc quốc gia, mười mấy năm đến nay, rất được lòng dân.
Ngày nay vua đã nhiều lần nghe ngóng tình hình của ngài, là lo lắng ngài ra lệnh một tiếng, sẽ nghiêng ngả Quan Trung, mà thiên hạ sẽ không còn của họ Lưu nữa. Kế sách hiện nay, ngài chỉ có tự làm ô uế thanh danh, cưỡng ép mua rẻ ruộng bách tính, Hoàng đế mới có thể yên tâm. Tiêu Hà y theo kế hành sự, Lưu Bang quả nhiên mừng lắm, cho là Tiêu Hà không đáng lo nữa”.
Rất mau chóng, Lưu Bang tiêu diệt phản quân của Anh Bố, trở lại Trường An. Quả nhiên thấy bách tính đầy đường kêu oan, tố cáo Tướng quốc cưỡng ép mua rẻ ruộng của bách tính. Sau khi Lưu Bang hồi cung, đem tất cả các tố cáo ném cho Tiêu Hà để ông tự giải thích với bách tính, mà trong lòng Lưu Bang lại thấy dễ chịu kỳ lạ.
Điều này không qua được mắt Tiêu Hà. Tiêu Hà biết Lưu Bang thấy uy vọng của ông đã mất, trong lòng sẽ vô cùng vui vẻ, Mà bản thân Tiêu Hà cũng thở phào nhẹ nhõm, thoạt nghĩ nên nhân lúc Lưu Bang trong lòng vui vẻ nên nói mấy lời. Thế là Tiêu Hà bước đến gần Lưu Bang nói, lấy đất trống ở Thượng lâm uyển chia cho một số bách tính làm đất ruộng.
Nhưng lời nói chưa dứt, họa từ miệng mà ra. Lưu Bang nghe thấy Tiêu Hà lại xin cho dân, nghi kỵ bỗng nảy sinh. Ông cho rằng Tiêu Hà lại muốn dùng đất của Hoàng gia để giành lòng dân. Lưu Bang mắng Tiêu Hà tại sao nhận hối lộ của thương nhân, muốn lấy đất ở vườn thượng uyển của Hoàng gia để mưu lợi cá nhân. Đoạn giao Tiêu Hà cho Đình úy, đeo gông cùm, nhốt trong đại lao.
Sau đó, trong triều có người khuyên gián Lưu Bang nói, Tiêu Hà nhiều năm trấn thủ Quan Trung, bệ hạ nhiều năm chinh chiến bên ngoài. Tiêu Hà nếu làm phản thì Quan Tây đã không phải của bệ hạ từ lâu rồi! Lưu Bang nghe lời đó, tuy trong lòng không vui, cuối cùng thấy giam Tiêu Hà trong đại lao có phần không thuyết phục, thế là lại phóng thích Tiêu Hà.
Lúc đó Tiêu Hà đã ở tuổi hoa giáp (60 tuổi). Tuy đại nạn không chết nhưng lòng còn run sợ. Từ đó về sau, Tiêu Hà tuy vẫn tiếp tục ở trong triều làm Thừa tướng nhưng lặng lẽ ít nói, chỉ còn biết cung kính cẩn thận tự bảo vệ mình, run rẩy lẩy bẩy, không còn phách lực năm xưa. Không lâu sau, Lưu Bang chết.
Hơn một năm sau, Tiêu Hà cũng hấp hối trên giường bệnh. Hiếu Huệ Đế đến hỏi Tiêu Hà sau khi trăm tuổi thì ai có thể làm Thừa tướng mà Tiêu Hà dường như vẫn còn run sợ, không dám nói nhiều. Cho đến khi Hiếu Huệ Đế tự nói ra tên Tào Tham, Tiêu Hà mới gật đầu tỏ ý tán đồng.
Kinh thi có câu: “Mị bất hữu sơ, tiển khắc hữu chung” (Ban đầu không tốt, hiếm mà có hậu). Cổ nhân cho rằng người và vật đều cần phải có thủy, có chung, khởi đầu tốt mà kết thúc cũng phải có hậu, trước sau như một. Nhưng con người sống trên đời có mấy ai trải qua hết phong ba bão táp mà vẫn kiên trì giữ được thiện tín trong lòng đây, mà không biến đổi đây?
Ví như Tiêu Hà, công lớn như thế, dựng mở cơ nghiệp giúp đế mệnh, lo cho quốc gia phụng sự việc công, mà lại tỏ ra u tối trong mỗi lần đứng trước khúc rẽ đường đời. Ông thực đã khiến bản thân gần tới điểm cuối cuộc đời viên mãn bỗng quay ngoắt rơi thẳng xuống vực sâu ân hận. Tiêu Hà trong những năm tàn sau kiếp nạn, vác gánh nặng này, cũng làm cho bản thân mình trở thành kẻ câm điếc. “Thành cũng Tiêu Hà, bại cũng Tiêu Hà” chính là một lời than thở ngàn năm, đến nay truyền miệng ngàn đời, có sức cảnh tỉnh con người.
Có bài thơ rằng:
Thành cũng Tiêu Hà
Bại cũng Tiêu Hà
Dẫn đường chỉ lối
Khai quốc công thần
Giỏi dụng hiền tài
Cung đình hoàn thiện
Đặt luật chín chương
Hậu thế noi gương
Tiếc thay Mão tinh
Nhất thời mê muội
Nhầm giúp Lã Hậu
Hại chết lương tài
Bảo trọng chưa xong
Lại gây họa mới
Tán tài từ phong
Ô danh tự rớt
Giả dối chốn đâu
Như ngồi vạc dầu
Đạo nghĩa chẳng giữ
Sao gọi hiền minh?
Chẳng như ban đầu
Khó mà có hậu
Thành cũng Tiêu Hà
Bại cũng Tiêu Hà
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Nam Phương biên dịch
Xem thêm:
- Hàn Tín, hùm thiêng khi đã sa cơ (Kỳ 9): Sự thật về chuyện Hàn Tín bị khép tội mưu phản
- Vị tướng quân có tâm đại nhẫn nổi tiếng nhất lịch sử Trung Hoa, chịu nhục chui háng, ôm chí lớn
- Vạn Lý Trường Thành không phải là bức tường phòng thủ lớn nhất ở Trung Quốc