Huệ Năng sau khi làm bài kệ ‘Bồ đề bản vô thụ’, được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát làm Lục Tổ Thiền tông thì nghe lời răn dạy của Ngũ Tổ, lập tức đi về phương Nam.
Ngài ẩn cư trong núi rừng Lĩnh Nam 15 năm, rồi mới xuất hiện truyền pháp. Tên tuổi Ngài lập tức truyền rộng khắp vùng. Tăng nhân và thế nhân cũng như rất nhiều quan lại quyền quý khắp mọi nơi tìm đến Ngài, khao khát được nghe Ngài thuyết pháp.
Danh tiếng của Huệ Năng càng lớn thì một số đệ tử của Thần Tú – Thiền tông Bắc phái, trụ trì chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Nam lại càng cảm thấy lo lắng bất an. Bản thân Thần Tú không để ý, nhưng các môn đồ của ông lại bấn cả chân tay, muốn cảnh cáo Huệ Năng. Bọn họ nghĩ rất nhiều cách, nhưng vẫn chưa thống nhất được. Một hòa thượng tên là Chí Minh đưa ra chủ ý: “Tôi có một người bạn thế tục, tên là Trương Hành Xương, ông ấy là người hành hiệp, chỉ thích giúp người ra tay lấy lại sự công bằng, lại có võ nghệ cao cường. Chúng ta có thể nhờ ông ấy dạy cho Huệ Năng một trận”.
Mọi người đều thấy cách này không ổn, nhưng nhất thời chẳng nghĩ ra được cách nào hay hơn, bèn dặn đi dặn lại rằng: “Vừa điểm đến là dừng, để Huệ Năng e dè xem xét lại hành vi của ông ta, không được làm cho sự việc xấu đi”.
Thế là Chí Minh đi tìm Trương Hành Xương, nói với ông ta rất nhiều điều về Huệ Năng sai trái như thế nào, phô trương thanh thế ra sao, rồi nói: “Xin lượng tình bằng hữu, nhờ ông dạy cho Huệ Năng bài học. Sau khi xong việc, chúng tôi xin tặng ông 10 lạng vàng để cảm tạ”.
Trương Hành Xương ngay đêm đó lặng lẽ xuất phát, giấu con dao nhỏ sắc bén trong ngực áo, ngày đêm đi gấp, nhằm hướng Tào Khê mà đến.
Một hôm, Huệ Năng lên đàn giảng Pháp như thường lệ, bỗng nhiên trông thấy trời đất sông nước mênh mông, vạn dặm trong veo như tấm gương, chỉ thấy một người mặt đầy sát khí đang gấp gáp tiến về hướng Tào Khê.
Huệ Năng lập tức biết ngay là sự việc gì, ông vẫn thuyết pháp như thường lệ, nét mặt không mảy may suy chuyển. Đến đêm, Huệ Năng lấy ra 10 lạng vàng để ở trên chiếc ghế thiền cạnh giường, sau đó khép hờ cửa phòng phương trượng, thổi tắt đèn, sau đó ngủ ngon lành.
Trương Hành Xương đến chùa Bảo Lâm, đợi đến khi màn đêm buông xuống liền nhảy qua tường vào trong. Lại chờ 2 canh giờ, ông ta nhẹ nhàng đẩy cửa phòng phương trượng. Nghe thấy tiếng thở đều đều của Huệ Năng, ông ta bèn rút con dao sắc nhọn ra. Trương Hành Xương bỗng nhớ đến Chí Minh cứ luôn miệng căn dặn không được làm sự tình quá đáng, bèn thu dao lại. Nhưng lại nghĩ: “Ta đã bao khó nhọc mới đến đây, sao không làm một lần triệt để cho xong. Hôm nay ta giết Huệ Năng, khi về chưa biết chừng họ lại còn cho thêm tiền cũng nên”.
Chỉ sai một niệm, cái ác liền nảy sinh trong lòng, Hành Xương lao vút tới như mũi tên nhằm vào cổ Huệ Năng vung dao. Chỉ nghe thấy tiếng ‘choang’, Hành Xương cảm thấy như chém vào tảng đá, dao bị nảy ngược trở lại. Ông ta kinh sợ miệng há to như tê dại. Chẳng kịp suy nghĩ gì thêm, Hành Xương lại chém hai nhát liền, dao đều bị nảy bật ra.
Hành Xương còn muốn chém tiếp. Lúc này Huệ Năng nói: “Kẻ ác to gan, sao vẫn chưa bỏ dao xuống. Gươm chính thì không tà, gươm tà thì không chính. Ngươi bị người ta lợi dụng, hành thích người thiện lương, sao có thể động đến cái lông của ta được. Ta chỉ nợ ngươi 10 lạng vàng chứ không nợ mạng ngươi”.
Hành Xương kinh hãi vội vàng ném dao xuống đất, quỳ mọp xuống đất khấu đầu không ngớt cầu xin Huệ Năng tha thứ, xin nguyện xuất gia làm tăng nhân, cả đời thờ phụng Huệ Năng. Huệ Năng cầm 10 lạng vàng đưa cho ông ta rồi nói: “Ông hãy mau rời đi, nếu đệ tử của tôi biết ông là thích khách ắt sẽ làm hại ông. Nếu ông muốn xuất gia, hôm khác thay trang phục khác rồi đến”.
Hành Xương tuôn lệ bái tạ, sau đó không lâu đã xuất gia làm tăng nhân.
Ngày 1 tháng 7 năm Tiên Thiên thứ 2 đời Đường Huyền Tông (năm 713), Huệ Năng bỗng triệu tập tất cả tăng nhân trong chùa lại và nói: “Tháng 8 bần tăng sẽ rời thế gian, mọi người còn có nghi vấn gì thì hãy nêu ra”.
Mấy hôm sau, có đệ tử hỏi: “Thưa đại sư, sau này sẽ có tai nạn gì không?”
Huệ Năng nói: “Sau khi bần tăng qua đời 5, 6 năm sẽ có người đến lấy trộm đầu của ta. Xảy ra việc gì ư? Có thể dùng 4 câu dự ngôn:
Đầu thượng dưỡng thân,
Khẩu lý tu xan,
Mại mãn chi nạn,
Dương Liễu vi quan.
Nghĩa đen là:
Trên đầu nuôi dưỡng người thân
Trong miệng phải ăn cơm
Đi hết kiếp nạn
Dương Liễu là quan.
Đến ngày mồng 3 tháng 8, Huệ Năng không nói gì nữa, ngồi tọa thiền một mạch đến canh 3 rồi nói một câu: “Ta đi đây” rồi an nhiên ra đi.
Sau khi Huệ Năng chết, có xảy ra chuyện trộm đầu không?
Theo sử sách ghi chép, sau khi Huệ Năng chết được 9 năm, cũng chính là năm Khai Nguyên thứ 10, có một tăng nhân nước Tân La tên là Kim Đại Bi ngưỡng mộ uy danh đại sư Huệ Năng đã lâu, muốn đem đầu Huệ Năng về nước để thờ cúng. Thế là ông ta thuê một người tên là Trương Tịnh Mãn đi lấy trộm đầu.
Trương Tịnh Mãn là một người con có hiếu, nhà có mẹ già tuổi cao. Để nuôi dưỡng mẹ già và nuôi gia đình, ông ta đã nhận lời lấy trộm đầu. Khi Tịnh Mã lẻn vào chùa Bảo Lâm ở Tào Khê, không ngờ sự việc bại lộ, đầu không trộm được mà lai bị bắt quy án. Đúng như dự ngôn của Huệ Năng, viên quan Thứ sử Thiều Châu thẩm lý vụ án này tên là Liễu Vô Thiểm, mà huyện lệnh huyện Giang Khúc ở Tào Khê tên là Dương Khản, đúng là “Dương Liễu vi quan” (Dương – Liễu là quan).
Trong lịch sử nhân loại đã có nhiều dự ngôn: Nước Pháp có “Các thế kỷ” của Nostradamus; Hàn Quốc “Cách Am di lục” do Thần nhân núi Kim Cương khẩu thuật, Nam Sư Cổ ghi lại từng chữ; Trung Hoa có “Mã tiền khóa” của Gia Cát Lượng, “Thôi bối đồ” của Viên Thiên Cang, “Thiêu bính ca” của Lưu Bá Ôn v.v. Các dự ngôn đều tiên đoán rất chính xác. Các tác giả này dường như có một loại Thần thông biết được vận mệnh quá khứ tương lai của con người, xã hội. Loại Thần thông này thực ra là một loại công năng đặc dị mà giới tu luyện gọi là “Túc mệnh thông”, là một khả năng phi thường mà những người tu luyện đến một tầng thứ cao nhất định sẽ tu xuất lai.
Thế nên, việc Lục Tổ Huệ Năng đã tiên đoán chính xác việc ông bị thích khách muốn hãm hại, và cả chuyện nhiều năm sau khi ông đã chết cũng không phải là chuyện gì huyền bí khó hiểu cả.
Theo zhengjian.org
Nhất Tâm biên dịch