Chuyện Kinh Thánh là tác phẩm văn học nổi tiếng của nữ văn hào Pearl Buck – người đã từng đạt giải Nobel Văn Chương năm 1938 và giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1931. Từ tác phẩm Kinh Thánh, bà đã chọn lọc, sắp xếp các câu chuyện theo trình tự thời gian, rồi thổi hồn vào đó, chấm phá những nét khóc cười của nhân vật để khiến truyện gần gũi mà vẫn tôn trọng nguyên tác.
Chuyện Kinh Thánh mô tả cuộc hành trình về với đức tin nguồn cội của dân Do Thái, cũng là của cả loài người. Là nhịp cầu tâm linh nối tâm hồn con người với Đấng Cao Cả. Tác phẩm được đánh giá rất cao từ giới chuyên môn cũng như người đọc phổ thông, cả trong và ngoài đạo Thiên Chúa.
Vì lấy cảm hứng từ Kinh Thánh – cuốn sách ẩn chứa nhiều huyền cơ và những hàm nghĩa uyên thâm – nên tác phẩm của Pearl Buck cũng mang trong mình nhiều giá trị lớn lao. Đại Kỷ Nguyên xin giới thiệu tiểu mục dài kỳ Chuyện Kinh Thánh bao gồm các câu chuyện trong nguyên tác. Cũng trong loạt bài viết này, người viết mạn phép chia sẻ những hiểu biết và thể ngộ nông cạn của bản thân, rất mong được bạn đọc gần xa góp ý và thảo luận.
Kỳ 4: Noah và lụt hồng thủy
Sau khi mất hai đứa con đầu, Adam và Eva tiếp tục sống rất lâu vì khi thế giới mới được tạo dựng, người ta sống thọ hàng trăm năm. Tâm hồn cả hai u sầu vì các con trai đã bỏ họ mà đi theo cách thê thảm như thế, nhưng họ không để cho mình bị khổ não đánh gục. Theo thời gian, họ có thêm nhiều con cái, trong số đó kẻ đầu tiên là một cậu bé rất giống Abel. Họ gọi cậu là Seth. Khi tới tuổi thành niên, Seth kết hôn và lập nên một dòng tộc truyền đời qua nhiều thế kỷ, rồi sản sinh ra kẻ đã cứu thế giới thoát khỏi sự trừng phạt của Chúa.
Cuối cùng, lúc Adam và Eva qua đời, tám trăm năm sau ngày sinh ra Seth, thì gia đình của họ đã gia tăng thành một tộc đông người. Đất đai nơi họ sống và làm việc cực nhọc nay không còn hoang vu cô quạnh mà là đất sinh sôi, đông đúc các con, các cháu, các chắt chút chít của họ, những kẻ lớn lên và rồi có con cháu của riêng mình. Thế giới đó chắc phải là một thế giới tốt lành và tuyệt diệu.
Nhưng hình như trên mặt đất này càng đông người thì càng nhiều độc ác sa đọa. Trong số những người đang sống chỉ có một ít người đạt được thiện cảm trong mắt Thiên Chúa vì tình yêu thương của họ dành cho cái tốt lành và cái chính đáng. Những người ít ỏi này thuộc dòng dõi của Seth. Một trong những người đó là Enos. Ông cùng đi dạo và chuyện trò với Thiên Chúa như Adam đã làm thuở còn ở trong vườn Địa Đàng. Một con cháu khác của Enos tên là Methuselah, kẻ sống thọ hơn bất cứ kẻ nào trên thế gian, sinh rất nhiều con trai và con gái trong cuộc đời dài chín trăm sáu mươi chín năm trần gian của ông. Trong số các con trai của ông có Lamech, người sẽ có một cậu con trai chứng tỏ là bậc xuất chúng nhất trong số các hậu duệ của Seth. Cậu con trai đó tên là Noah.
Loài người lúc đó sinh sôi nảy nở trên mặt đất, làm lụng, vui chơi, có gia đình và không còn nhớ gì đến Chúa của mình. Thiên Chúa nhìn xuống và thấy có ít người như Noah làm việc siêng năng ngoài đồng áng và cư xử ngay lành với đồng loại; và ngài thấy có nhiều người, thí dụ hậu duệ của Cain, đang trở nên giàu có trong các thành phố của họ và tôn thờ những cái do chính tay họ làm ra. Hiếm có người đàn ông hoặc đàn bà nào có chút lòng nghĩ tới Thiên Chúa, đấng đã tạo dựng họ. Người ta dường như đã quên cách sống ngay lành với nhau, và họ lại càng không yêu thương Chúa của mình. Họ đã ra quá đỗi vô tâm vô trí tới độ không còn biết cái gì là chính đáng; hoặc hình như họ không cần biết.
Phải làm điều gì đó, Thiên Chúa đưa lời cảnh cáo: “Thần khí của ta sẽ không lưu tồn mãi mãi nơi loài người. Nếu chúng không vượt qua được sự sa đọa hoặc độc dữ này thì tuổi đời của chúng sẽ không hơn một trăm hai mươi năm”.
Nhưng hình như người ta không nghe ngài nói. Họ không để ý tới lời cảnh cáo của Chúa. Thay vì thay đổi sống tốt lành hơn, họ lại ra tệ hơn. Và Thiên Chúa thấy thế giới đầy rẫy độc ác và sai trái. Con người không chỉ đồi bại trong hành động mà còn bại hoại trong ý nghĩ và tâm hồn triền miên cái ác.
Thiên Chúa đau lòng trước những gì ngài thấy. Ngài tiếc mình đã an bài cho con người ở thế giới này. Trong buồn phiền, ngài nói: “Ta sẽ xóa sạch con người mà ta tạo dựng khỏi mặt đất. Không chỉ loài người thôi mà còn hết thảy thú vật, côn trùng và chim trời, vì ta hối tiếc đã làm ra chúng”.
Nhưng ngay cả trong những ngày ấy vẫn còn có một người đạt được ơn sủng trong mắt của Chúa, người đó là Noah. Giống như ông cố của mình là Enos và tổ tông của mình là Adam, Noah là người cùng đi dạo và chuyện trò với Thiên Chúa. Giữa một thế giới hoàn toàn sa đọa, ông một mình sống ngay lành và giữ cho cả nhà đi theo đường lối của Thiên Chúa. Ông có ba con trai, Shem, Ham, và Japheth, cả ba người con đều sống ngay lành.
Thiên Chúa nói với Noah: “Đã tới lúc kết liễu hoàn toàn sự bạo động và sự độc dữ này. Ta sẽ hủy diệt hết thảy mọi sinh vật và cùng với chúng là toàn bộ thế giới. Nhưng ngươi, Noah, ngươi phải làm một chiếc tàu gỗ bách. Ngươi sẽ ngăn tàu ấy thành buồng rồi lấy dầu hắc trám cả trong lẫn ngoài để nước không thể lọt vào. Tàu đó có ba tầng: Tầng trệt, tầng thứ hai và tầng thứ ba, và nó phải cao mười bốn thước. Chiều dài một trăm ba mươi bảy thước. Chiều rộng hai mươi ba thước”.
Noah lắng nghe Thiên Chúa nói với mình và lấy làm kinh ngạc. Ông chưa từng đóng tàu thuyền vì ông sống xa bờ biển và không bao giờ cần tới thứ đó. Chắc chắn ông chưa bao giờ tưởng tượng có ngày mình sẽ đóng một chiếc tàu với kích cỡ to lớn như vậy. Nhưng Thiên Chúa dạy ông cách làm thế nào đóng nó. Tàu sẽ được đóng rất vững chắc với khung sườn bằng gỗ cứng cáp, có một cái mui kênh cao lên để nước không tràn lên boong tàu và một bên mạn tàu có cửa sổ và một cửa lớn độc nhất để ra vào. Khi làm xong, nó giống như một nhà bè khổng lồ. Nhưng để làm gì?
Ngay sau đó có câu trả lời. Chúa nói: “Sẽ có một trận lụt hồng thủy khắp cõi đất và mọi sinh linh dưới gầm trời sẽ bị hủy diệt. Nhưng với ngươi, Noah, ta lập lời hứa. Khi ngươi đóng tàu xong thì hãy đi vào trong tàu, ngươi và vợ ngươi, ba người con trai của ngươi và gia đình của chúng. Ta thấy ngươi là người ngay lành và ta sẽ cứu ngươi. Còn về tất cả các sinh vật đang sống, trừ loài người ra, ngươi hãy mang vào trong tàu mỗi loài một cặp để giữ cho chúng sống sót cùng ngươi. Một cặp gồm một con đực và một con cái. Về mọi loài chim trên trời và mọi loài thú vật hết sức cần thiết cho con người, như cừu và gia súc, ngươi sẽ đem vào trong tàu mỗi loài bảy cặp, để chúng đều sinh sản trở lại, đầy chất lượng, trên mặt đất khi nước lụt rút hết. Và ngươi hãy gom đủ loại lương thực, cất chúng trên tàu để cung cấp cho ngươi, cho hết thảy các thú vật và các loài bò sát ở chung với ngươi trên tàu.
Noah cảm thấy đây là một việc lạ lùng mà mình phải làm nhưng ông tuân lệnh vì ông tin vào Thiên Chúa. Phải mất công sức trong thời gian lâu để đóng tàu, thâu tóm loài vật, tom góp và dự trữ lương thực, và việc đó không dễ làm trước sự chế giễu của hàng xóm. Ông cảnh giác họ về trận lụt hồng thủy sắp tới, van nài họ sám hối và cứu lấy bản thân nhưng họ lớn tiếng cười nhạo ông và chiếc tàu khổng lồ của ông vì nơi ông ở rất xa biển, và họ không tin rằng họ sẽ gặp nguy cơ xuất phát từ Thiên Chúa. Họ không thể tin như vậy vì họ không tin vào Thiên Chúa. Và họ không tưởng tượng ra được một trận lụt tệ hại tới nỗi hủy diệt mọi thứ họ đang có, kể cả mạng sống của chính họ. Do đó họ tiếp tục cười nhạo và tiếp tục lối sống độc dữ của mình.
Nhưng Noah vẫn tiếp tục đóng tàu trong khi con cái của ông thu thập loài vật và lương thực.
Ngày giờ đã tới.
Khi Thiên Chúa bảo ông lên tàu, Chúa nói: “Trong bảy ngày nữa, ta sẽ làm cho mưa xuống đất. Trời sẽ mưa suốt bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Hãy mang thú vật, từng cặp một lên tàu và cả gia đình ngươi nữa. Bất cứ sinh vật nào không ở trên tàu sẽ bị xóa sạch khỏi mặt đất”.
Noah lên tàu với các con trai và vợ mình cùng với vợ của các con trai mình. Từng cặp một, các loài chim và thú vật và các loài côn trùng, con đực và con cái, đi theo gia đình con người đó mà lên tàu. Rồi Noah đóng cửa và chờ đợi.
Ông không phải chờ lâu. Bảy ngày sau lời cảnh cáo cuối cùng của thiên chúa, nước lụt tràn đầy mặt đất. Lúc đó là vào năm thứ sáu trăm của cuộc đời Noah, ngày hai mươi bảy tháng hai. Các mạch nước ngầm vĩ đại bật tung và các cửa sổ trên trời mở toang.
Nước từ trời tuôn xuống. Từ những chỗ đất ngập, người ta chạy vào nhà tránh lụt, và rồi không thoát khỏi nước, người ta bỏ chạy lên đồi núi. Không có chỗ nào trốn thoát được. Các dòng sông dâng nước lên cao quá bờ và chảy tràn lan mặt đất. Các ao hồ lớn họp nhau lại thành những ao hồ lớn hơn nữa, và mực nước từ từ tăng lên cao dần. Chiếc tàu nổi vững vàng trên mặt nước đang dâng cao, và mưa quất lên cái mui tàu trét bằng dầu hắc. Bên trong, ông Noah ngay lành cùng cả nhà an toàn và khô ráo; cùng với họ là các cặp thú vật mọi loài. Chỉ có họ và các thú vật đó nổi bồng bềnh trên nước lụt hồng thủy. Dù bị cắt đứt hoàn toàn với mặt đất, họ vẫn có bên mình đủ lương thực để nếu cần thì dùng trong nhiều tháng.
Trời mưa suốt bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.
Bên ngoài con tàu, những dòng suối nhỏ thành những dòng sông chảy xiết. Những dòng sông thành những bức vách bằng nước biến đất đai ra thành một hồ nước mênh mông, lấm chấm những đảo nhỏ từng có thời là cao nguyên. Nước mưa hợp với nước biển cuốn phăng các bờ biển và các thung lũng. Các ngọn đồi khuất chìm dưới nước đang tràn lên. Nước dâng càng ngày càng cao, phủ ngập các đồi cao và ngập luôn cả những đỉnh núi cao nhất dưới gầm trời. Không còn nơi nào để chạy cho tới khi thoát chết. Hết thảy mọi người và tất cả thú vật, tất cả chim trời và tất cả côn trùng, đều bị cơn lụt hồng thủy quét sạch cho tới khi trên thế giới chẳng còn lại gì ngoại trừ một chiếc khăn phủ bằng nước và một chiếc tàu gỗ độc nhất bềnh bồng trên nước sâu.
Và rồi dứt mưa. Tới cuối bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, Thiên Chúa nhớ đến Noah và mọi sinh vật ở với ông trong con tàu. Và Thiên Chúa cho gió thổi khắp mặt đất để làm nước yên lặng. Ngài khiến các mạch nước ngưng lại và các cửa sổ của bầu trời đóng lại và ngài giữ nước mưa ở lại trên trời. Các biển lớn phủ ngập mặt đất bắt đầu dần dần rút xuống. Trong hơn sáu tháng, con tàu tiếp tục bập bềnh trên mặt biển thinh lặng, cái sống động độc nhất trên toàn thế giới. Chầm chậm, từ ngày này sang ngày khác trong suốt một trăm năm mươi ngày, nước rút hết. Vào ngày mười bảy của tháng thứ bảy tính từ ngày trời bắt đầu mưa, con tàu đậu lại trên núi non xứ Ararat vùng Mesopotamia. Tới ngày đầu tiên của tháng thứ mười, từ con tàu nhìn ra có thể thấy các đỉnh núi xa xa.
Vào lúc chấm dứt bốn mươi ngày và nước đang rút, Noah mở cửa sổ tàu, thả ra một con quạ và quan sát thấy nó bay lòng vòng trong bầu trời quạnh quẽ. Nó là sinh vật độc nhất lúc đó sống bên ngoài con tàu dù nó đã thăm dò và không thấy có vùng đất khô ráo nào. Noah cũng thả một con bồ câu vì biết rằng hễ có chỗ nào đất khô thì bồ câu sẽ nhẹ nhàng đáp xuống. Nhưng, không giống như con quạ, bồ câu bay trở về, Noah đưa tay ra và đem nó vào tàu lại. Bảy ngày sau, ông lại thả bồ câu ra lần nữa. Lần này nó bay trở về vào lúc buổi tối, miệng ngậm một chiếc lá ô-liu non tươi. Như vậy Noah hiểu rằng nước đã rút khỏi mặt đất đủ để có thể sống được, và rằng ở đâu đó, cây cối đang sống đã vươn ngọn lên khỏi hồ nước mênh mông. Tuy vậy, ông chờ thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu đó ra lần nữa. Nó hoàn toàn không bay trở về.
Và vào ngày đầu tiên của tháng thứ nhất năm sáu trăm lẻ mốt trong cuộc đời của Noah, mặt đất không còn nước lụt. Noah giở mui tàu, ngó ra một thế giới tuy đầy hứa hẹn nhưng rất lạ lùng. Mặt đất đã khô ráo nhưng ông không còn ở trong xứ sở của mình nữa. Thiên Chúa lại ngỏ lời với ông, ngài nói rằng: “Hãy ra khỏi tàu, mang theo vợ ngươi, các con trai và vợ của các con trai ngươi và hết thảy chim chóc, thú vật và côn trùng, và thả chúng trở lại trên đất để chúng sinh sôi nảy nở nhung nhúc đầy mặt đất”.
Vậy Noah mở ra cái cửa lớn của tàu mà một năm trước đây, đoàn thủy thủ kỳ dị của ông đã từng đàn từng lũ đi vào; rồi mỗi loài, từng đôi một, đi theo Noah và gia đình ông bước ra, lên đất khô ráo tuyệt vời. Cuối cùng, thế giới lại sống động.
Trên mặt đất hoàn toàn khô ráo, Noah lập tức xây một tế đàn để cảm tạ Thiên Chúa, biểu lộ lòng biết ơn vì được cứu thoát. Trên những tảng đá không đẽo gọt đó, ông thiêu các lễ vật lên Thiên Chúa, đấng yêu thương ông, và dâng lời cảm tạ về những hy vọng trong thế giới.
Thiên Chúa ngửi hương thơm dịu ngọt của các lễ vật Noah dâng và bằng lòng với những gì đang có trong tâm hồn của con người ngay lành này, và ngài thề nguyện trong lòng rằng ngài sẽ không bao giờ thêm lần nữa nguyền rủa đất đai để trừng phạt loài người và hủy diệt mọi sự sống trên đất. Ngài hứa hẹn: “Bao lâu đất còn tồn tại thì sẽ không ngưng mùa gieo và mùa gặt, lạnh và nóng, mùa hè và mùa đông, ngày và đêm”. Rồi Thiên Chúa chúc lành cho Noah và các con trai của ông, và nói với họ: “Đất là của các ngươi. Hãy sinh sôi nảy nở, hãy có nhiều con cháu và hãy nên dãy đầy trên đất”. Ngài ban cho họ đất và những gì sống động trên đất.
Kế đó ngài lập ra một vòng cung lớn với các màu sắc yêu kiều uốn cong trên bầu trời. “Đây là dấu hiệu cho lời giao ước giữa chúng ta”, ngài tuyên bố. “Ta lập giao ước với các ngươi, với tất cả những sinh vật các ngươi mang theo mình, và với con cái mọi thời của các ngươi. Ta đặt cầu vồng của ta trên bầu trời như một nhắc nhở lời giao ước của ta với mọi sinh linh trên đất. Khi thấy nó, các ngươi sẽ nhớ điều ta nói với các ngươi và sẽ biết rằng ta đang nhớ. Và đây là lời thề mãi mãi: Nước sẽ không bao giờ còn hóa ra lụt quét sạch mọi sinh linh. Sẽ không bao giờ có nữa một trận lụt hồng thủy tiêu hủy con người khỏi mặt đất”.
Bình Nguyên