Vào cuối những năm 1950, nạn đói nghiêm trọng nhất trong lịch sử loài người xảy ra ở Trung Quốc, trong đó nạn đói thê thảm nhất xảy ra ở khu vực Tín Dương, tỉnh Hà Nam. Hôm nay, dựa trên cuốn “Bia mộ” của Dương Kế Thằng và các tài liệu khác, chúng ta sẽ truy tìm sự thật về 1,05 triệu người chết đói ở Tín Dương. 

Chào mừng các bạn đến với Trăm năm chân tướng!

Vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ đã trải qua nạn đói nghiêm trọng nhất trong lịch sử loài người. Theo nghiên cứu trong cuốn sách “Bia mộ” của Dương Kế Thằng, cựu phóng viên cấp cao của Tân Hoa Xã, đương thời toàn quốc có 36 triệu người chết đói. Trong số đó, khu vực Tín Dương của tỉnh Hà Nam bị thiệt hại nặng nề nhất.

Tín Dương nằm ở phía đông nam của tỉnh Hà Nam, vốn là một địa phương trù phú với sơn thanh thủy tú, được mệnh danh là “quê hương của cá và lúa”. Tuy nhiên, từ năm 1959 đến năm 1960, 1,05 triệu người đã chết đói ở Tín Dương.

Hôm nay, dựa trên cuốn “Bia mộ” của Dương Kế Thằng và những thông tin khác, chúng tôi sẽ cùng các bạn truy tìm sự thật về 1,05 triệu người chết đói ở Tín Dương.

Thảm kịch nạn đói ở Tín Dương

Vào ngày 12 tháng 11 năm 1960, Lý Tiên Niệm, lúc đó là phó thủ tướng Quốc vụ viện, và Đào Chú, bí thư thứ nhất Cục Trung Nam của Trung ương ĐCSTQ, dẫn đầu một tổ công tác đến Tín Dương. Năm tháng sau cuộc điều tra, Đào Chú nói trong một bài phát biểu: “Tôi không nghĩ chúng ta nên tiếp tục đếm số người chết, đã hơn 1 triệu rồi.”

Huyện Quang Sơn ở tỉnh Tín Dương là quê hương của Đặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai, lúc đó là thủ tướng Quốc vụ viện.

Lỗ Quốc Bảo, một phóng viên của Tân Hoa Xã trụ tại Tín Dương năm đó, nhớ lại: “Huyện Quang Sơn có số người chết đói lớn nhất, chết một phần ba, cả gia đình chết đói.”

Theo “Bia mộ” của Dương Kế Thằng, ban đầu xã Hòe Điếm thuộc huyện Quang Sơn có 36.691 người, từ tháng 9 năm 1959 đến tháng 6 năm 1960, tử vong 12.134 người. Có 780 gia đình chết cả nhà. Thôn Khương Loan nguyên ban đầu có 45 người, thì 44 người đã chết, chỉ còn lại một bà lão khoảng 60 tuổi cũng phát điên.

“Quang Sơn huyện chí” ghi lại rằng, bắt đầu từ năm 1958, huyện này đã phải hứng chịu hạn hán trong 4 năm liên tiếp, sản lượng ngũ cốc giảm dần từ năm này sang năm khác. Nhưng ký ức của Ngô Vĩnh Khoan, một ông lão thuộc đại đội Ngô Viên Tử của đại đội Cao Đại Điếm ở huyện Quảng Sơn, sự thật không như thế. Ông cho biết:

“So với những năm trước đó, đội sản xuất của chúng tôi đã được vụ mùa bội thu vào năm 1959. Mùa hè chúng tôi thu hoạch được 12.000 cân lúa mì và 3.500 cân đậu. Toàn bộ số thu hoạch nói trên đều được giao nộp vào quốc khố, mỗi người chỉ được giữ lại 30 cân lúa mì vào mùa hè và 30 cân gạo vào mùa thu, người ta nói rằng sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc gia mới được giữ lại. Nhưng sau đó họ phát động chống che giấu, mang toàn bộ lương thực thu hoạch được giao cho quốc khố thôi chưa đủ, còn nói phải giao nhiều lương thực hơn nữa, trên thực tế một chút lương thực cũng không còn.”

“Không có lương thực để ăn, mọi người phải ra ngoài tìm rau dại và cạo vỏ cây để ăn. Cuối cùng rau rừng không còn, vỏ cây bị cạo hết, sau đó ngay cả vỏ trấu cũng xay nhuyễn để ăn… Điều này khiến người ta ngày ngày bị cơn đói tra tấn, mỗi ngày đều có vài người chết; Có đứa trẻ chết rồi, bị người lớn xẻo thịt nấu ăn… Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng, ngôi làng nhỏ từng có 120 người, thì hơn 70 người đã chết.”

Vào dịp Tết Thanh Minh năm 2004, ông lão Ngô Vĩnh Khoan đã dựng hai bia đá trên mảnh đất nông nghiệp của nhà mình để tưởng nhớ những người dân làng đã chết trong nạn đói lớn, một tấm bia của họ Ngô, và tấm bia còn lại họ ngoài, khắc danh tính của 72 người đã chết trên những tấm bia.

Dư Đức Hồng, thư ký của Trương Thụ Phan, chuyên viên Phòng Hành chính Tín Dương, là người huyện Hoài Tân. Ông nhớ lại: “Huyện này có hơn 40 vạn người, chết 18 vạn; xã Phòng Hồ nơi gia đình tôi sống có 5 vạn người, thì hơn 2 vạn người đã chết; và đội sản xuất nơi gia đình tôi làm việc có tổng cộng 75 người, thì 38 người đã chết, sáu người trong gia đình tôi cũng chết: cha tôi, chú hai, dì hai, chú ba, dì ba và con của chú ba… Tình huống ăn thịt người hầu như làng nào cũng có.”

Liên quan đến hiện tượng ăn thịt người, có rất nhiều ghi chép về những sự kiện ở Tín Dương.

Diêu Học Trí, lúc đó là sở trưởng Sở Sản xuất Bộ Lao động Nông thôn của Tỉnh ủy Hà Nam, nhớ lại: “Tại đại đội Nam Nghiêu của xã (Núi Chaya), những người lớn của một gia đình đã chết đói, chỉ còn lại hai người anh và một em gái. Vào mùa đông, khi đang sưởi ấm bên đống lửa, anh trai hỏi em trai: Em có đói không? Đói thì phải làm sao? Chúng ta không thể đợi chết! Hai người thương lượng, hãy ăn em gái nhé! Liền đánh chết em gái, rồi nướng cô bé trên lửa. Khi người chú trong nhà ngửi thấy mùi thịt nướng, liền tới xem. Thấy hai anh em đang nướng đùi em gái của mình, xé ra và nhai. Người chú mắng lớn, nhưng bọn trẻ không nghe thấy, vẫn xé ăn, đặt cái đầu lâu đã bị gặm lên bậu cửa sổ. Người chú báo công an, công an đến bắt hai đứa, người em bỏ chạy, người anh bị bắt đi rồi lại bị tống trở về và chết trên đường. Người em trốn thoát cuối cùng cũng chết đói.”

Theo bài viết “Tìm hiểu ‘Ngôi làng chết’ ở thương thành Hà Nam năm 1959” của Lý Tố Vị, tác giả của “Viêm Hoàng xuân thu”, vào mùa đông năm 1959 và mùa xuân năm 1960, khu vực Tín Dương có hơn 5 vạn hộ gia đình, thì hơn 1 vạn hộ gia đình cả nhà chết đói, một ngôi làng 1 vạn người bị hủy diệt.

Tại sao 1,05 triệu người chết đói ở Tín Dương?

Nguyên nhân thứ nhất là cách làm cực tả của Mao Trạch Đông trong việc phát động vận động Đại nhảy vọt.

Năm 1958, Mao phát động vận động Đại nhảy vọt nhằm “đuổi kịp Anh, Mỹ” và “chạy vào chủ nghĩa cộng sản”.

Làm thế nào để “đuổi kịp Anh Mỹ” và “chạy vào chủ nghĩa cộng sản”? Cách làm của Mao là “vỗ não”, tùy ý xác định “chỉ tiêu cao”, sau đó, áp những “chỉ tiêu cao” này xuống từng tầng từng tầng.

Năm 1957, tổng sản lượng ngũ cốc của Trung Quốc là 370 tỷ cân.

Tuy nhiên, đến năm 1958, các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất ngũ cốc của ĐCSTQ tiếp tục tăng: Tháng 2, chỉ tiêu xác định là 392 tỷ cân; Tháng 3, nó được sửa thành 431,6 tỷ cân; Tháng 8, nó được sửa thành 600 tỷ đến 700 tỷ cân; Đến 12 tháng, lại sửa thành 750 tỷ cân.

Đến tháng 2 năm 1959, ĐCSTQ đặt mục tiêu kế hoạch sản xuất ngũ cốc trong năm đó là 1,05 nghìn tỷ cân.

Đồng thời, “Nhân dân Nhật báo” đi đầu phóng “vệ tinh cao sản”. Vào ngày 7 tháng 6 năm 1958, “vệ tinh cao sản” đầu tiên được phóng vào Tín Dương, tỉnh Hà Nam: báo cáo năng suất lúa mì là 2.105 cân mỗi mẫu; tiếp theo là vệ tinh thứ hai và thứ ba: báo cáo năng suất lúa mì là 3.530 cân và 7.320 cân mỗi mẫu. Sau đó, khắp cả nước đua nhau phóng “vệ tinh cao sản”.

Ngày 23/7/1958, tờ “Nhân dân nhật báo” đăng bài xã luận: “Sản lượng lúa mì của Trung Quốc đã vượt qua Mỹ và đứng thứ hai thế giới. Tốc độ tăng sản lượng lúa mì của Trung Quốc là chưa từng có trong lịch sử cổ kim trong ngoài nước, nó nằm ngoài tầm với của các quốc gia tư bản.” “Chỉ cần chúng ta yêu cầu, muốn sản xuất bao nhiêu liền có thể sản xuất bấy nhiêu lương thực.”

Sau đó, Nhân dân Nhật báo đã gióng trống giương cờ, nói rằng “Người có gan to bao nhiêu, đất có sản lượng lớn bấy nhiêu”.

Mao Trạch Đông đầu não phát sốt, dẫn đến toàn đảng đầu não phát sốt. Bị thúc bởi “chỉ tiêu cao” của Mao, nông dân toàn quốc nhanh chóng bùng nổ “năm phong trào”, đó là phong trào cộng sản, phong trào nói khoác, phong trào mệnh lệnh, phong trào cán bộ đặc thù và phong trào kẻ mù chỉ huy sản xuất, do đó dẫn đến hàng loạt vấn đề vô cùng nghiêm trọng.   

Từ tháng 10 năm 1958, trước Tết Nguyên Đán, Tín Dương đã xuất hiện hiện tượng người dân chạy trốn nạn đói và chết đói.

Nguyên nhân thứ hai là cách làm cực tả trong vận động phản hữu do Mao Trạch Đông phát động.

Tại Hội nghị Lư Sơn tổ chức vào tháng 7 năm 1959, nguyên soái Bành Đức Hoài của ĐCSTQ đã viết một bức thư nói lên sự thật cho Mao Trạch Đông về một số vấn đề trong “Đại nhảy vọt”, nhưng lại dẫn đến cơn thịnh nộ của Mao. Bành Đức Hoài sau đó bị đả thành kẻ cầm đầu “tập đoàn phản đảng”. Sau đó, vận động phản hữu phái trên toàn quốc đã được triển khai trên toàn quốc.

Năm 1959, sản lượng ngũ cốc ở vùng Tín Dương thấp hơn 50% so với năm 1958, chỉ hơn 2 tỷ cân, nhưng bị báo cáo láo lên thành 7,2 tỷ cân. Nhiệm vụ trưng thu thóc do cấp trên quyết định tăng 18% so với năm trước, lên mức 50% tổng sản lượng.

Làm thế nào mới có thể hoàn thành nhiệm vụ trưng thu thóc mà cấp trên giao? Dựa vào vận động phản hữu. Làm thế nào để chống phái hữu? Chính là căn cứ theo chỉ thị của Mao Trạch Đông về “chống che giấu tài sản và phân chia tài sản riêng”, họ đã phê đấu, lục soát nhà cửa, đánh đập và giết người.

Theo Trương Thụ Phan, ủy viên Phòng Hành chính Tỉnh ủy Tín Dương vào thời điểm đó, khoảng 12.000 người đã bị phê đấu trong toàn huyện. Trong quá trình đó, hàng nghìn người đã bị đánh đến chết.

Theo khảo sát của Lý Lập, bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, có 1.510 cán bộ xã, lữ đoàn, đội ở xã Hoài Điện, huyện Quảng Sơn, thì 628 người trong số họ đã đánh người. Bị đánh có 3.528 người, 558 người chết tại chỗ, 636 người chết sau khi bị đánh, 141 người bị thương, 14 người bị bức đến chết và 43 người bị đánh què.

Theo báo cáo của Đội điều tra trung ương, tổng cộng có 1.065 xã viên bị đánh chết hoặc bức đến chết ở huyện Tức, trong đó 226 người thiệt mạng tại chỗ, 360 người chết sau khi bị đánh và 479 người bị bức tự sát. Trong đó, có 29 cán bộ cơ sở bị đánh chết, 46 người bị đánh đến tàn tật.

Có 17 đảng viên tập sự ở xã Bành Tân, huyện La Sơn, 16 người trong số họ được thăng cấp đảng viên chính quy vì đánh người trong chiến dịch “chống che giấu tài sản”, chỉ có một người không được trở thành đảng viên chính quy vì đã không đánh ai cả.

Ngoài đấm, đá, đóng băng và bỏ đói, hàng chục phương thức tra tấn cực kỳ tàn nhẫn cũng được sử dụng như dội nước lạnh lên đầu, giật tóc, cắt tai, dùng xiên tre đâm xuyên lòng bàn tay, thắp đèn trời, nhét than nóng vào miệng và chôn sống.

Năm 1959, dưới sự phê, đấu, bức, lục soát, đánh đập của cán bộ, dân quân các cấp ở vùng Tín Dương, nhiệm vụ trưng thu lương thực đã hoàn thành, nhưng khẩu phần ăn hàng năm của nông dân chỉ còn hơn 100 cân (50kg), chỉ đủ dùng trong ba hoặc bốn tháng, kéo theo nạn đói lớn.

Quan viên cấp thấp trở thành con dê tế tội

Vụ việc nhiều người chết đói ở Tín Dương cuối cùng đã được báo cáo lên cấp cao nhất của ĐCSTQ. Từ tháng 2 năm 1960 đến tháng 10 năm 1960, Bộ Nội vụ Trung ương, Ủy ban Giám sát Trung ương, Cục Trung ương và Cục miền Nam, v.v. đều cử người đến Tín Dương để tiến hành điều tra.

Mao Trạch Đông kết luận: “Sự kiện Tín Dương là sự phục khởi giai cấp địa chủ và sự trả thù của giai cấp phản cách mạng.” “Chúng ta phải tiến hành bài học cách mạng dân chủ triệt để, giống như cải cách ruộng đất, đánh bại triệt để kẻ thù, vạch trần triệt để những điều xấu xa, đoạt lại quyền lãnh đạo, lật ngược hoàn toàn cục diện.”

Tháng 11 năm 1960, Trung ương ĐCSTQ cử phó thủ tướng Lý Tiên Niệm đến Tín Dương để thực hiện tinh thần của Trung ương. Vì vậy, các cán bộ đã được điều động từ nhiều bộ và ủy ban trung ương, Tỉnh ủy Hà Nam và Tỉnh ủy Tín Dương để tiến hành chỉnh phong chỉnh xã ở khu vực Tín Dương. Gần như cùng lúc đó, họ đoạt quyền lãnh đạo Ủy ban tỉnh Tín Dương, các quận, xã và đại đội. Những người bị tước quyền lực, hoặc bị tiến hành phương án thẩm tra, hoặc tập huấn.

Ba mươi chín người, trong đó có Lộ Hiến Văn, bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Tín Dương, đã bị tổ chuyên án Trung ương thẩm tra.

Cuối cùng, Lộ Hiến Văn bị kết án ba năm tù; Mã Long Sơn, bí thư thứ nhất huyện ủy Quảng Sơn, bị kết án tử hình. Lưu Văn Thái, bí thư Ban Bí thư Quận ủy Quảng Sơn, và các bí thư đảng ủy của bảy quận khác, cũng như huyện trưởng Trương Khánh Lâm của huyện Toại Bình, viện trưởng Pháp viện Tín Dương Đinh Trương Hỉ, và cục trưởng công an Tín Dương Hàn Nhân Bỉnh, mỗi người bị kết án vài năm tù. 

Sau Cách mạng Văn hóa, khi những người bị xử lý này biết rằng những vấn đề tương tự như Tín Dương đang xảy ra trên khắp đất nước, họ rất bất phục, liên tục viết thư khiếu nại, yêu cầu bình phản triệt để.

Họ tin rằng sự kiện Tín Dương hoàn toàn không phải là một cuộc khải phục của phản cách mạng, trách nhiệm không hoàn toàn thuộc về cấp dưới, Tỉnh ủy, Tỉnh ủy, Quận ủy đều phải chịu trách nhiệm, và Trung ương thậm chí còn có trách nhiệm lớn hơn.

Các chính sách cực tả của Mao Trạch Đông là nguyên nhân chính khiến hơn 1 triệu người chết đói ở Tín Dương. Tuy nhiên, Mao không chịu bất kỳ trách nhiệm kỷ luật nào của đảng hay chính phủ về việc này, chứ đừng nói đến trách nhiệm pháp lý.

Ngô Chi Phố, bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Hà Nam, người tích cực tuân theo các chính sách cực tả của Mao, đã trực tiếp chịu trách nhiệm lãnh đạo về việc này. Tuy nhiên, ông không phải chịu bất kỳ kỷ luật đảng hay hình phạt nào của pháp luật mà được điều động khỏi Hà Nam, chuyển sang giữ chức vụ Bí thư Cục Trung Nam.

Theo Trương Thụ Phan, chuyên viên Văn phòng Hành chính Tín Dương lúc bấy giờ: “Đương thời, rất nhiều người chết đói ở khu vực Tín Dương, không phải vì không có lương thực, tất cả các kho ngũ cốc đều đầy ắp.”

Thư ký của Trương Thụ Phan, Dư Hồng Đức kể lại: Năm đó có hơn 1 tỷ kg ngũ cốc trong kho ngũ cốc Tân Dương, sản lượng năm đó là hơn 2,9 tỷ cân, tổng cộng là 4 tỷ cân. Tích trữ nhiều lương thực như vậy khiến người ta chết đói, thật là không đúng. Nếu mở kho thóc thì sẽ không có người chết đói.

Nói cách khác, 1,05 triệu người chết đói ở Tín Dương, đây không phải là do “thiên tai”, mà hoàn toàn là “nhân họa”.

Theo Epoch Times,
Mộc Lan biên dịch