Tác giả: Lâm Huy
Khác với việc hiếm có bậc thầy dưới sự thống trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), thời kỳ Dân quốc đã sản sinh ra một lớp các bậc thầy uyên thâm cả Trung và Tây học. Theo mô tả trong một số sách về thời Dân quốc, họ là một nhóm người có “khí phách”, “thú vị”, “hài hước” và học vấn sâu rộng. Đôi khi họ ngây thơ như trẻ con, và đối với thế sự, họ thường có những hành động kinh thiên động địa. Việc họ có thể “tùy ý làm bậy” như vậy chính là nhờ sự khoan dung của chính phủ Dân quốc.
Thời bấy giờ, dù là chính phủ quân phiệt Bắc Dương hay chính phủ Quốc dân Nam Kinh, Trùng Khánh dưới thời Tưởng Giới Thạch, đều giữ một sự tôn trọng nhất định đối với nhân cách, kiến thức và tín ngưỡng của giới trí thức tự do. Còn giới trí thức đối với chính phủ thì: khi anh sai tôi phê bình anh, khi anh đúng tôi ủng hộ anh. Không còn nghi ngờ gì nữa, nguyên nhân căn bản hình thành nên mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau này chính là ở sự thành tâm của chính phủ Dân quốc.
Tuy nhiên, chính sách tàn sát mà ĐCSTQ áp dụng sau khi thành lập chính quyền không chỉ khiến các bậc thầy thời Dân quốc ở lại đại lục lần lượt bị bức hại thảm khốc, thậm chí chết thảm, mà còn làm cong gãy hoàn toàn xương sống của giới trí thức. Việc sau năm 1949, Trung Quốc đại lục không còn xuất hiện bậc thầy nào nữa cũng là điều tất yếu, bởi vì mảnh đất để sản sinh ra các bậc thầy đã bị phá hủy hoàn toàn. Loạt bài này kể về trải nghiệm của một vài bậc thầy bị ĐCSTQ bức hại tàn khốc, và bài viết này nói về bậc thầy Quốc học nổi tiếng nhất thời Dân quốc, Trần Dần Khác.Cái tên Trần Dần Khác, vào thời Dân quốc, là một cái tên lừng lẫy. Ông không có bằng cấp nhưng được Đại học Thanh Hoa mời làm giáo sư, cùng với Lương Khải Siêu, Vương Quốc Duy được mệnh danh là “Tam đại trụ cột của Thanh Hoa”, giảng đường của ông thường chật cứng sinh viên từ các trường đại học khác ở Bắc Kinh đến nghe. Ông học vấn uyên bác, thông thạo hơn hai mươi thứ tiếng, được ca ngợi là “giáo sư của các giáo sư”, học vấn của ông được cho là “chỉ có một người trong ba trăm năm trở lại đây”, nhưng lại là người khiêm tốn, kiệm lời. Dù chuyên tâm vào học thuật, ông chưa bao giờ đánh mất khí phách của mình, tinh thần “tư tưởng không tự do, thà chết còn hơn” xuyên suốt cả cuộc đời ông, và ông cũng rất có thể là người Trung Quốc đầu tiên đọc nguyên bản tiếng Đức của cuốn Tư bản luận.
Đề xuất điều kiện để nhận chức ở Bắc Kinh
Theo cuốn sách Trần Dần Khác và Phó Tư Niên xuất bản ở đại lục, vào đêm trước khi ĐCSTQ thành lập chính quyền năm 1949, vì nhiều lý do, Trần Dần Khác đã không thể rời khỏi đại lục, từ đó số phận của ông đã được định đoạt. Ông đầu tiên giảng dạy tại Đại học Lĩnh Nam, sau đó Đại học Lĩnh Nam được sáp nhập vào Đại học Trung Sơn, từ đó ông luôn giữ chức giáo sư tại Đại học Trung Sơn và trải qua hai mươi năm cuối đời tại đây.
Năm 1953, Mao Trạch Đông, người “thích lịch sử”, quyết định rằng Ủy ban Trung ương ĐCSTQ sẽ thành lập một Ủy ban Nghiên cứu Lịch sử, bao gồm các “học giả đỏ” như Trần Bá Đạt, Quách Mạt Nhược, Phạm Văn Lan, Tiễn Bá Tán. Mao đã chỉ định Trần Bá Đạt làm chủ nhiệm. Vào tháng 10 cùng năm, theo đề nghị của Mao, Hội Nghiên cứu Lịch sử quyết định thành lập thêm ba viện nghiên cứu tại Viện Khoa học Trung Quốc: Viện Nghiên cứu Lịch sử Cổ đại do Quách Mạt Nhược làm viện trưởng, Viện Nghiên cứu Lịch sử Trung cổ do Trần Dần Khác làm viện trưởng, và Viện Nghiên cứu Lịch sử Cận đại do Phạm Văn Lan làm viện trưởng.
Sau khi quyết định bổ nhiệm được ban hành, Quách Mạt Nhược và Phạm Văn Lan đều lập tức nhậm chức, chỉ có Trần Dần Khác không hề lay chuyển. Khi đó, thỉnh thoảng có khách từ Bắc Kinh đến Quảng Châu để thuyết phục ông, bao gồm cả học trò giỏi của ông, Uông Tiễn, phó giáo sư khoa Lịch sử Đại học Bắc Kinh. Uông Tiễn lúc đó mang theo hai lá thư, một của Viện trưởng Viện Khoa học Trung Quốc Quách Mạt Nhược, và một của Phó Viện trưởng Lý Tứ Quang viết tay.
Trần Dần Khác đã nói với Uông Tiễn, người đến thuyết phục mình, rằng: “Làm học thuật, không nên có cái đuôi ‘dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa này hay tư tưởng nọ’, bất cứ cái gì có cái đuôi đó đều không phải là học thuật chân chính.” “Đừng mang sẵn quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin rồi mới đi nghiên cứu học thuật, và cũng đừng học chính trị.” “Tôi tuyệt đối không phản đối chính quyền hiện tại, vào năm Tuyên Thống thứ ba, tôi đã đọc nguyên bản Tư bản luận ở Thụy Sĩ rồi. Nhưng tôi cho rằng không thể mang sẵn quan điểm Mác-Lênin rồi mới nghiên cứu học thuật. Những người tôi muốn mời, những học trò tôi muốn dẫn dắt đều phải có tư tưởng tự do, tinh thần độc lập. Nếu không phải vậy thì không phải là học trò của tôi.”
Trần Dần Khác, người chủ trương tự do học thuật, còn đưa ra hai điều kiện để nhậm chức: một là, cho phép Viện Nghiên cứu Lịch sử Trung cổ không tôn thờ chủ nghĩa Mác-Lênin và không học tập chính trị; hai là, xin Mao Công (tức Mao Trạch Đông) hoặc Lưu Công (tức Lưu Thiếu Kỳ) cấp một giấy chứng nhận cho phép, để làm “tấm khiên che chắn”. Đối với hai điều kiện mà Trần Dần Khác đưa ra, ĐCSTQ tất nhiên không đồng ý, và việc đến Bắc Kinh nhậm chức cuối cùng cũng không thành.
Khi đó, có sinh viên khuyên Trần Dần Khác không nên làm vậy, nhưng ông lại nói: “Tôi không cần phải nói dối với Đảng Cộng sản. Tôi chỉ muốn giữ lại một mảnh đất trong lành cho lĩnh vực học thuật, từ khi tôi viết văn bia cho Vương Quốc Duy, tôi đã giữ vững tôn chỉ tự do học thuật, trải qua hơn hai mươi năm không thay đổi.”
Sau đó, mặc dù Trần Dần Khác bị phê phán, nhưng dưới sự che chở của Bí thư thứ nhất Trung Nam cục Đào Chú, ông đã trải qua một khoảng thời gian tương đối yên bình tại Đại học Trung Sơn.

Nhìn thấu sự nguy hại của chủ nghĩa Mác-Lênin
Những năm đầu du học ở châu Âu, Trần Dần Khác đã đọc bản tiếng Đức của Tư bản luận. Trong thời kỳ kháng chiến, khi đang nằm trên giường bệnh ở Thành Đô, Trần Dần Khác đã nói chuyện với nghiên cứu sinh Thạch Tuyền của Đại học Yên Kinh mà ông hướng dẫn về chủ nghĩa cộng sản và Đảng Cộng sản: “Thực ra tôi không sợ chủ nghĩa cộng sản, cũng không sợ Đảng Cộng sản, tôi chỉ sợ người Nga. Vào năm Cách mạng Tân Hợi, tôi đang ở Thụy Sĩ, sau khi đọc được tin này trên báo nước ngoài, tôi lập tức đến thư viện mượn đọc Tư bản luận. Bởi vì muốn bàn về cách mạng thì điều đáng chú ý nhất vẫn là Marx và chủ nghĩa cộng sản, điều này ở châu Âu rất rõ ràng. Tôi đã đến nhiều nước trên thế giới, châu Âu, Mỹ, Nhật Bản đều đã đi qua, chỉ duy nhất chưa đến Nga, chỉ gặp những người Nga lưu vong ở châu Âu và Mỹ, và đọc trong sách thấy nhiều mô tả về cảnh sát mật của Sa hoàng Nga, họ rất lợi hại, rất tàn bạo, tôi cảm thấy rất đáng sợ.”
Trần Dần Khác, người cảm thấy người Nga rất đáng sợ, không ngờ rằng, từ khoảnh khắc ông ở lại Trung Quốc đại lục, sự đáng sợ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kẻ học theo người Nga, đã bắt đầu hiện hữu ngay trước mắt. Khoảng năm 1950, Trần Dần Khác đã viết một bài thơ ẩn ý có tựa đề “Kinh Sử” để thể hiện nhận thức của mình về sự nguy hại của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bài thơ viết:
虛經腐史意何如,溪刻陰森慘不舒。
競作魯論開卷語,說瓜千古笑秦儒。
Hư kinh hủ sử ý hà như,
Khê khắc âm sâm thảm bất thư.
Cạnh tác Lỗ luận khai quyển ngữ,
Thuyết qua thiên cổ tiếu Tần nho.
Dịch thơ:
Hủ sử hư kinh hư hỏi thế nào,
Khắc nghiệt âm u, thảm cảnh trào.
Tranh làm Lỗ luận khai quyển ngữ,
Chuyện dưa thiên cổ Nho Tần nhào.
Dịch nghĩa xuôi: Sách kinh điển giả dối, sách sử mục nát, ý nghĩa của chúng là gì? (Học thuyết) hà khắc, u ám, bi thảm không sao tả xiết. (Mọi người) tranh nhau nói những lời mở đầu trong sách Luận Ngữ (ám chỉ việc học tập chính trị một cách sáo rỗng), (Hành động đó giống như) kể chuyện dưa (tự chui vào rọ), để cho ngàn đời sau chê cười Nho sĩ thời Tần (những học giả bị chôn sống vì tin theo tà môn oai đạo).
Bài thơ này của Trần Dần Khác trích dẫn nhiều điển cố, quả thực khiến người đọc khó hiểu. Sau này, qua nhiều lần suy ngẫm và khảo chứng của một số học giả, ý nghĩa thực sự của bài thơ cuối cùng đã được làm sáng tỏ.
“Hư kinh” trong câu đầu tiên ám chỉ cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (Bolshevik) Liên Xô – Khóa học ngắn gọn, được xuất bản từ năm 1938 cho đến khi Stalin qua đời, được tái bản ba trăm lần ở Liên Xô và phát hành bốn mươi hai triệu bản. Nó được gọi là “bách khoa toàn thư của chủ nghĩa Mác-Lênin”. “Hủ sử” thường chỉ cuốn Sử ký của sử gia Tư Mã Thiên thời Tây Hán, được viết sau khi ông phải chịu hình phạt bị thiến (hủ hình); trong bài thơ, nó ngụ ý rằng các học giả Liên Xô đã viết ra “hư kinh” dưới sự tra tấn và ép buộc. Cuốn sách này đổi trắng thay đen, tô hồng cho cuộc tập thể hóa và Đại thanh trừng của Đảng Cộng sản Liên Xô vào những năm 1930, ca ngợi tội ác của Stalin trong việc đàn áp, lưu đày hàng chục triệu đảng viên, cán bộ và nông dân cũ, tự nhiên không tránh khỏi việc chứa đầy khí u ám. “Khê khắc” sử dụng một điển cố trong Thế thuyết tân ngữ, chỉ hành vi “hà khắc” của Trần Trọng Tử, để châm biếm tư tưởng Mác-Lênin rất tàn khốc đối với con người. Rõ ràng, Trần Dần Khác cho rằng học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin là vô cùng khắc nghiệt và đáng sợ.
Câu thứ hai, “Lỗ luận khai quyển ngữ” chỉ câu đầu tiên trong thiên Học nhi mở đầu sách Luận ngữ: “Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Khổng Tử nói: Học mà thường xuyên ôn tập, chẳng phải vui lắm sao). Cả câu có nghĩa là các giáo sư và sinh viên đại học đột nhiên đồng thanh, ai ai cũng bàn chuyện học tập, người người đều học Mác-Lê. “Thuyết qua thiên cổ tiếu Tần Nho” có nghĩa là giới trí thức đương thời đã bị ĐCSTQ gom vào một lưới mà không hề hay biết.
Đại ý của toàn bài thơ là: giáo điều Mác-Lênin kìm hãm tự do tư tưởng và cuộc sống cá nhân, giới trí thức tranh nhau học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, thực chất là tự chui đầu vào rọ, hoàn toàn rơi vào bẫy của kẻ thống trị. Có thể nói, bài thơ “Kinh Sử” là tác phẩm thể hiện thái độ của Trần Dần Khác đối với việc học tập chính trị đang thịnh hành sau này, việc viết một cách ẩn ý tự nhiên là để tránh những tác động chính trị không cần thiết.
Và thực tế lúc bấy giờ đúng như những gì Trần Dần Khác mô tả trong thơ, vào đầu những năm 1950, sau khi ĐCSTQ củng cố quyền lực, giới trí thức cả nước đã bắt đầu cuộc cải tạo tư tưởng. Từ cuối tháng 9 năm 1951, ĐCSTQ buộc các giáo viên, nhân viên các trường đại học, trung học, tiểu học và sinh viên từ cao đẳng trở lên phải khai báo lịch sử của mình, thanh trừng các phần tử phản cách mạng, và các phương pháp được sử dụng đều bắt nguồn từ phong trào chỉnh phong của ĐCSTQ thời Diên An, chẳng hạn như chiến thuật tra tấn bằng cách không cho ngủ, các nghi thức hội họp và áp lực tập thể. Một số trí thức không chịu nổi áp lực, đã chọn cách tự tử hoặc trốn khỏi đại lục, trong khi phần lớn trí thức khác, thông qua phong trào cải tạo tư tưởng, đã chấp nhận đối tượng trung thành là ĐCSTQ và Mao Trạch Đông. Từ đó, ai ai cũng mở miệng là nói Mác-Lê, các tác phẩm đều lấy việc trích dẫn nguyên văn kinh điển Mác-Lê và các tác phẩm của Mao Trạch Đông làm vinh dự. Do chiến tranh Triều Tiên, phong trào cải tạo này tạm thời bị gián đoạn, nhưng vài năm sau, ĐCSTQ đã phát động một phong trào tàn phá giới trí thức còn lớn hơn: phong trào Chống phái hữu.
Năm 1957, trong một lá thư gửi cho người bạn Lưu Minh Thứ, Trần Dần Khác có viết: “Gần đây em vẫn đang viết sách, nhưng đã từ bỏ kỹ năng cũ, dùng phương pháp mới, tài liệu mới, làm một thử nghiệm vui (thơ ca và các ghi chép địa phương thời Minh-Thanh). Nó không giống với quy tắc cũ của lối khảo cứu thời Càn-Gia, và càng không phải là học thuyết mới của Thái Sử Công và Xung Hư chân nhân.” Hãy thử nghĩ xem, Thái Sử Công và Xung Hư chân nhân đều là những nhân vật cổ xưa, sao bỗng nhiên lại trở thành “học thuyết mới”?
Nhà sử học đương đại Dư Anh Thời đã nhìn ra ý nghĩa thực sự trong đó: Thái Sử Công là Tư Mã Thiên, Xung Hư chân nhân là Liệt Ngự Khấu. Thực ra, tiên sinh Trần đang nói rằng, ông nghiên cứu lịch sử quyết không dùng “Mác-Lê” (Mã-Liệt)! Đây chính là điều làm nên một Trần Dần Khác! Từ đó cũng có thể hiểu được nhận thức sâu sắc về sự nguy hại của chủ nghĩa Mác-Lênin trong bài thơ “Kinh Sử” mà tiên sinh đã viết một cách ẩn ý.
Bức hại điên cuồng
Cuốn sách Trần Dần Khác và Phó Tư Niên còn tiết lộ những ngày cuối đời và cái chết bi thảm của Trần Dần Khác.
Sau khi Cách mạng Văn hóa bùng nổ vào năm 1966, những kẻ tạo phản ở Đại học Trung Sơn đã chĩa mũi nhọn vào vị lão nhân đã mù cả hai mắt này. Trần Dần Khác từ “phần tử theo con đường tư bản”, “thế lực học thuật phản động của giai cấp tư sản” cỡ lớn, đã được “thăng cấp” thành “ngưu quỷ xà thần”, “tàn dư phong kiến”, “phần tử theo con đường tư bản chết không hối cải”, đồng thời bị chỉ trích là “thủ phạm chính” trong việc phung phí tài sản quốc gia, hưởng chế độ chăm sóc cao cấp, chỉ dùng thuốc của đế quốc Mỹ, và cố ý sỉ nhục các nữ y tá trẻ tuổi trị liệu cho mình.
Khi Đào Chú bị hạ bệ, tình cảnh của Trần Dần Khác, người từng được ông bảo vệ, cũng trở nên vô cùng khó khăn. Trợ lý Hoàng Huyên bị đuổi đi, ba y tá bị rút về, lương bị ngừng phát, tiền tiết kiệm bị đóng băng. Tòa nhà số một khu Đông Nam trong khuôn viên trường nơi gia đình Trần Dần Khác ở bị dán đầy các áp phích chữ to, trông từ xa như một cỗ quan tài trắng khổng lồ, nhìn vào thật kinh hoàng, rùng rợn.
Kinh khủng hơn nữa, các tờ báo chữ to dần dần được dán từ bên ngoài vào bên trong nhà, trên cửa, tủ quần áo, đầu giường, thậm chí cả trên quần áo của Trần Dần Khác cũng bị dán kín. Đối mặt với cảnh này, phu nhân của ông, bà Đường Oản, đã phải thốt lên lời ai oán: “Người còn chưa chết mà đã làm đám tang trước rồi.”
Những kẻ tạo phản điên cuồng còn cướp phá tài sản của gia đình ông một cách quy mô lớn. Toàn bộ số sách mà Trần Dần Khác tích lũy trong nửa sau cuộc đời đã bị niêm phong, các bản thảo bị cướp đi. Một ít trang sức kỷ niệm do tổ tiên của bà Đường Oản để lại và hơn hai mươi bức thư của ông nội ông mà Trần Dần Khác đã phải trải qua muôn vàn khó khăn, hiểm nguy, may mắn giữ được qua mười mấy năm chiến tranh cũng bị cướp mất. Gia đình ông mất hết tài sản.
Để kiểm chứng lời đồn trong trường Đại học Trung Sơn rằng “Trần Dần Khác có trí nhớ phi thường” là thật hay giả, những kẻ tạo phản đã lôi Trần Dần Khác đang nằm trên giường bệnh xuống, buộc ông phải đọc thuộc lòng các câu trích dẫn của Mao, nếu không chịu đọc hoặc đọc sai một câu, ông sẽ bị lăng mạ và đánh đập dã man.
Để đạt được mục đích bức hại Trần Dần Khác đến chết, những kẻ tạo phản đã nghĩ ra một kế độc: đầu tiên, chúng treo mấy chiếc loa phóng thanh công suất lớn trước và sau cửa sổ nhà ông, để ông nghe thấy những tiếng gầm thét giận dữ của quần chúng cách mạng đối với mình. Trần Dần Khác, người đã mù cả hai mắt, không phân biệt được trâu ngựa, lại mắc chứng mất ngủ và bệnh tim nghiêm trọng, đột nhiên nghe thấy mấy “quái vật” gào thét bên tai suốt ngày, liền ôm đầu lăn lộn trên giường.
Những kẻ tạo phản thấy vậy vô cùng phấn khích, bèn tăng cường độ, dời thẳng loa phóng thanh vào trong phòng, buộc vào đầu giường của ông để phát. Vợ chồng ông vừa nghe được vài tiếng đã cảm thấy trời đất quay cuồng, cả hai cùng tái phát bệnh tim, miệng sùi bọt mép, ngã gục xuống đất.
Cái chết thảm cuối cùng
Tháng giêng năm 1969, gia đình Trần Dần Khác bị đuổi ra khỏi nhà, phải chuyển đến ở một căn nhà cấp bốn bốn bề lộng gió ở khu Tây Nam số năm mươi trong khuôn viên trường. Lúc này, Trần Dần Khác đã suy nhược đến mức không thể ăn cơm, chỉ có thể ăn một chút thức ăn lỏng như canh súp. Thỉnh thoảng có bạn bè thân thích lén đến thăm, thấy ông nằm trên giường bệnh không nói được lời nào, chỉ thấy khóe mắt không ngừng chảy nước mắt, người đến thăm ai cũng không khỏi đau lòng.
Vào những thời khắc cuối cùng của cuộc đời, vợ chồng Trần Dần Khác, những người yêu thương nhau sâu sắc, thường nhìn nhau mà khóc, than thở cho số phận bi thương. Chiều ngày 5 tháng 5 năm 1969, Trần Dần Khác, người đã kiệt sức nằm trên giường, lại một lần nữa bị buộc phải “khai báo” bằng miệng với chính quyền. Trần Dần Khác có nói một câu: “Bây giờ tôi như đang ở trong tù tử hình”, cuối cùng đến khi nước mắt cạn khô, khóc ra máu, miệng không thể nói được nữa mới thôi.
5 giờ 30 phút sáng ngày 7 tháng 10 năm 1969, Trần Dần Khác qua đời vì suy tim. Một tháng sau, vào ngày 21 tháng 11, bà Đường Oản cũng trút hơi thở cuối cùng, đi theo chồng.
Theo lời kể của bà Cam Thiếu Tô, phu nhân của Lương Tông Đại, người sống ở Đại học Trung Sơn vào thời điểm đó, trong cuốn hồi ký Tông Đại và tôi: “Lúc đó, những người bị chỉnh đốn và gia đình họ đều đặc biệt sợ loa phóng thanh, hễ nghe thấy tiếng loa là run rẩy, vì Hồng vệ binh thường dùng loa để thông báo họp, điểm danh người ra đấu tố diễu hành; mà mỗi lần đi ra như vậy cũng là chết đi một nửa. Trần Dần Khác, giáo sư cấp một khoa Lịch sử, bị mù cả hai mắt, ông ấy nhát gan, hễ nghe thấy trong loa gọi tên mình là toàn thân run rẩy, tiểu ra quần. Cứ như vậy, cuối cùng ông đã bị dọa cho đến chết.”
Lời kết
Bậc thầy Quốc học ba trăm năm mới có một đã ra đi như vậy, thực sự là một bất hạnh lớn cho văn đàn Trung Quốc! Tội ác của ĐCSTQ thật là sâu nặng!
Theo Epoch Times