Trong chương trình hôm nay của “Phân tích và Bình luận”, chúng ta sẽ cùng nhau lật lại một trang lịch sử đầy bí ẩn và bi thương của Tây Tạng, một câu chuyện xoay quanh vận mệnh của một trong những nhân vật tôn giáo quan trọng nhất: Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10. Tại sao một vị Phật sống, người được cho là có thần thông, lại biết trước chuyến đi của mình là một đi không trở lại nhưng vẫn quyết tâm lên đường? Phải chăng hai viên bánh tsampa nhỏ bé đã thực sự định đoạt số phận của ông và của cả dân tộc Tây Tạng? Hay đây là một kiếp nạn đã được định sẵn, một sự hy sinh để cứu độ chúng sinh mà ông, với tư cách là một hoá thân của Phật Di Lặc, không thể trốn tránh? Chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm câu trả lời, vén lên bức màn bí mật che phủ cuộc đời đầy sóng gió, đức tin và sự giằng xé chính trị của ngài.
LỜI TIÊN TRI VÀ CHUYẾN ĐI CUỐI CÙNG
Tháng 1 năm 1989, những ngày cuối cùng của năm Mậu Thìn, năm con Rồng. Một không khí căng thẳng bao trùm. Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10, ngài Erdini Chökyi Gyaltsen, người tuổi Hổ, đang chuẩn bị rời Bắc Kinh để trở về Tu viện Tashilhunpo ở Shigatse. Mục đích chuyến đi là để chủ trì một đại lễ vô cùng quan trọng: lễ khai quang cho lăng mộ của các vị Ban Thiền Lạt Ma tiền nhiệm.
Nhưng, một bóng đen của sự bất an đã phủ xuống. Vị kinh sư thân cận bên cạnh ngài đã khẩn khoản can ngăn. Ông nhắc nhở: “Thưa ngài, năm nay là năm ‘Long Hổ đấu’. Kiếp nạn giữa rồng và sư tử núi tuyết của chúng ta vẫn chưa được giải. Nghiệp lực lớn đến như vậy, làm sao ngài có thể một mình gánh chịu?” Vị kinh sư đề nghị, chỉ còn vài ngày nữa là qua năm mới, hãy đợi qua khỏi cửa ải này rồi hẵng tới Shigatse chủ trì đại điển.
Đối mặt với lời cảnh báo đầy lo lắng, Ban Thiền Lạt Ma chỉ mỉm cười. Ngài đáp: “Theo lịch Tạng, năm sau và năm sau nữa đều là ‘hắc niên’, tức năm của quỷ, không hề may mắn. Đại lễ khai quang bắt buộc phải được hoàn thành trong năm Thổ Long này.”
Trước khi ngài lên đường, một nhân vật đặc biệt của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đến tiễn, đó chính là ông Tập Trọng Huân. Tại sao một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản TQ lại đến tiễn một vị Phật sống? Mối quan hệ giữa họ là gì? Ông Tập Trọng Huân là một cán bộ khởi nghiệp từ vùng Tây Bắc, nơi có rất nhiều tín đồ của Ban Thiền Lạt Ma ở các tỉnh Thanh Hải, Ninh Hạ, Cam Túc. Ông Tập được giao nhiệm vụ công tác mặt trận thống nhất, và qua những lần tiếp xúc, hai con người với tính cách ngay thẳng, bộc trực đã trở thành một đôi bạn vong niên. Mối giao tình của họ càng thêm sâu đậm khi cả hai cùng trở thành nạn nhân trong các cuộc vận động chính trị của ĐCSTQ, cùng nhau nếm trải cảnh tù đày. Đây có lẽ cũng là một đoạn Phật duyên mà gia đình họ Tập phải có.
Trong lần tiễn đưa định mệnh này, ông Tập Trọng Huân dặn dò người bạn của mình: “Mùa này Tây Tạng thiếu oxy nghiêm trọng, ngài phải chú ý giữ gìn sức khoẻ.”
Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10 trả lời bằng một câu nói khiến người nghe phải lạnh gáy: “Sau khi đại lễ khai quang hoàn tất, tâm nguyện lớn nhất của tôi sẽ được thoả. Chết cũng có thể nhắm mắt.”
Ông Tập Trọng Huân vội gạt đi: “Những lời không may mắn như vậy không nên nói. Phật Tổ không muốn ngài đi, và Marx cũng không để ngài đi đâu.” Ban Thiền Lạt Ma chỉ cười mà không nói gì thêm.
Những điềm báo bất tường không chỉ dừng lại ở đó. Phu nhân của Ban Thiền Lạt Ma sau này hồi tưởng lại, trong những chuyến công tác trước đây, ngài chỉ dâng khăn Hada một lần khi tiễn biệt. Nhưng lần này, ngài đã dâng hai lần. Ngay trước lúc lên đường, trong khoảnh khắc bịn rịn chia tay, ngài lại dâng thêm một chiếc khăn nữa. Cũng như vậy, trước đây ngài chỉ nói “bảo trọng” một lần với vợ, nhưng lần này ngài đã phá lệ, lặp lại đến ba lần.
Tại phi trường Bắc Kinh, ngay trước khi lên phi cơ, Ban Thiền Lạt Ma còn đưa ra một yêu cầu đặc biệt. Ngài muốn người tuỳ tùng mang con chó yêu của mình, một con chó chăn cừu Đức lông đen tuyền do chính ông Tập Trọng Huân tặng, đến phi trường để ngài từ biệt. Người chủ không ngừng vuốt ve con vật, và con chó cũng rên ư ử như thể cảm nhận được cuộc chia ly vĩnh viễn. Cảnh tượng khiến những người xung quanh không khỏi cảm thấy kỳ lạ.
Trên một tấm ảnh tặng cho một người bạn, ngài đã viết một dòng chữ đầy ám ảnh: “Đừng quên tôi, một vị lạt ma mập mạp này nhé. Xin giữ làm kỷ niệm vĩnh viễn.”
Tất cả những dấu hiệu, những lời nói, những hành động bất thường dường như đang báo trước một điều gì đó khủng khiếp sắp xảy ra. Trong Phật giáo Tây Tạng, các vị Phật sống và lạt ma cao tăng đều được cho là có thần thông. Nếu ngài đã biết trước chuyến đi này lành ít dữ nhiều, tại sao ngài vẫn kiên quyết lên đường? Câu trả lời có lẽ nằm ở chính bản chất sứ mệnh của ngài. Đây không phải lần đầu tiên Ban Thiền Lạt Ma biết rõ phía trước có hiểm nguy mà vẫn dấn bước. Với tư cách là hoá thân của Phật Di Lặc, ngài hiểu rất rõ, mỗi một kiếp nạn mà ngài phải trải qua đều nằm trong số mệnh, và mỗi một lần ngài chịu đựng khổ đau, đều là để cứu độ cho thế nhân.
HAI VIÊN BÁNH VÀ LỰA CHỌN ĐỊNH MỆNH
Để hiểu được lựa chọn bi tráng này, chúng ta phải quay ngược dòng thời gian, trở về với những ngày đầu tiên định hình nên số phận của ngài. Tháng 12 năm 1937, Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 9, ngài Thubten Chökyi Nyima, viên tịch. Theo thông lệ, hội đồng của Ban Thiền Lạt Ma bắt đầu cuộc tìm kiếm linh đồng chuyển thế. Vào năm 1941, họ đã xác nhận một cậu bé tên là Goinbo Cedan chính là hoá thân của ngài. Tên pháp danh của cậu sau đó là Chökyi Gyaltsen.
Vào ngày 3 tháng 6 năm 1949, trong lúc chính quyền Quốc Dân Đảng đã ở trong thế ngàn cân treo sợi tóc, đang phải lưu vong ở Quảng Châu, quyền Tổng thống Lý Tông Nhân vẫn ban hành một văn thư chính thức, “đặc chuẩn kế nhiệm Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10”. Điều này có nghĩa là, chính quyền trung ương lúc bấy giờ đã công nhận địa vị của ngài.
Ngày 10 tháng 8 năm 1949, một ngày đi vào lịch sử, đại lễ tọa sàng đã được tổ chức long trọng tại Tu viện Kumbum (chùa Tháp Nhĩ). Nhưng chỉ 16 ngày sau, quân đội của ĐCSTQ đã chiếm được Lan Châu, và tình hình ở Thanh Hải trở nên hỗn loạn cực độ. Vận mệnh của vị Phật sống trẻ tuổi và của cả Tây Tạng đứng trước một ngã rẽ lịch sử.
Vị Ban Thiền Lạt Ma trẻ tuổi đã cử vị kinh sư của mình, Jamyang Rinpoche, lựa chọn những vị lạt ma đáng tin cậy nhất đi đến Tây Ninh để dò xét thái độ của ĐCSTQ đối với người Tạng và tôn giáo của họ. Cùng ngày hôm đó, một đặc phái viên của Quốc Dân Đảng cũng tìm đến và nói rằng, họ hy vọng có thể sắp xếp đưa Ban Thiền Lạt Ma cùng một số ít người tuỳ tùng lên phi cơ đến Đài Loan vào thời điểm thích hợp.
Những vị lạt ma được cử đi do thám đã trở về, mang theo một văn bản gọi là “Ước pháp tám chương”. Thực chất, đây chỉ là một tờ cáo thị an dân mà quân đội ĐCSTQ dán khắp nơi khi tiến vào các thành phố. Họ đã xé nó từ trên tường xuống và mang về cho Ban Thiền Lạt Ma xem.
Khi nhìn thấy tờ giấy đó, tâm trí của vị Phật sống trẻ tuổi trở nên rối bời. Tại sao? Bởi vì trong tâm trí ngài vẫn còn vang vọng lời cảnh báo của vị tiền nhiệm, Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 9, một vị Phật sống được ghi nhận là có công đức và thần thông cực kỳ vĩ đại. Vào những năm 30, ngài đã cảnh báo các tín đồ của mình: “Bất kể người của ĐCSTQ đi đến đâu, chúng sẽ đầu tiên đốt phá chùa chiền, đập bỏ tượng Phật, sát hại lạt ma, và ép buộc tín chúng phải im lặng. Đối với các Phật tử chúng ta, chúng là một mối đe dọa khổng lồ. Đừng bao giờ tin vào những lời tuyên truyền ngọt ngào của chúng.”
Bây giờ, Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10 chỉ là một thiếu niên. Rất nhiều việc ngài chưa thể nhìn thấu. Một bên là bản “Ước pháp tám chương” của ĐCSTQ, một bên là lời cảnh báo như sấm truyền của vị tiền nhiệm vẫn còn văng vẳng bên tai. Sứ mệnh tương lai của bản thân, vận mệnh của người dân Tây Tạng, rốt cuộc nên lựa chọn như thế nào? Ngài thực sự hoang mang.
Chính lúc này, các vị kinh sư đã nhắc nhở ngài về một phương pháp truyền thống: phép bói bánh tsampa. Khi các vị Phật sống hay đại lạt ma gặp phải những vấn đề nan giải, họ cũng thường dùng cách này để đưa ra quyết định. Họ sẽ dùng hai viên bánh tsampa, bên trong nhét những mẩu giấy ghi lại phán đoán của mình, sau đó tiến hành gieo quẻ.
Lần này, Ban Thiền Lạt Ma đã lấy hai viên bánh tsampa từ trong bát, rồi tìm hai mẩu giấy. Trên một mẩu, ngài viết chữ “Quốc” (國) của Quốc Dân Đảng. Trên mẩu còn lại, ngài viết chữ “Cộng” (共) của Đảng Cộng sản TQ. Điều đáng chú ý là, chữ “Quốc” không có phần “đầu” nhô lên, trong khi chữ “Cộng” lại có đến hai “đầu” nhô lên. Ngài cẩn thận nhét hai mẩu giấy vào hai viên bánh, đặt chúng vào trong một cái bát lớn rồi bắt đầu lắc. Quay mặt về phía tượng Hộ pháp, ngài bắt đầu lắc… lắc…
Không lâu sau, “cạch”, một viên bánh rơi ra. Đây chính là lựa chọn của ngài, là điều mà Hộ pháp muốn ngài làm. Ngài nhặt viên bánh lên, từ từ mở nó ra, trong lòng không ngừng niệm: “Có đầu… không có đầu… có đầu… không có đầu…” Vừa niệm vừa mở, và khi mẩu giấy được mở ra hoàn toàn, ngài nhìn thấy, chữ này không chỉ có đầu, mà có đến hai cái đầu.
Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10 đã quyết định hợp tác với Đảng Cộng sản TQ.
TỪ TUẦN TRĂNG MẬT ĐẾN NHÀ TÙ TẦN THÀNH
Mùa xuân năm 1951, Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10 lên đường đến Bắc Kinh. Năm 1955, Mao Trạch Đông đã tiếp kiến ngài. Khi đó, Mao đã nói một câu nổi tiếng: “Tôi thấy ở Tây Tạng, không thể chỉ hô ‘Mao chủ tịch vạn tuế’, ‘Chu tổng tư lệnh vạn tuế’, mà còn phải hô ‘Đạt Lai Lạt Ma vạn tuế’, ‘Ban Thiền Lạt Ma vạn tuế’.”
Nhưng trớ trêu thay, cũng chính trong năm 1955 đó, năm mà người ta hô “vạn tuế”, vào nửa cuối năm, ĐCSTQ bắt đầu tiến hành cải cách ruộng đất ở các vùng của người Tạng. Dân biến nổ ra.
Ngày 10 tháng 3 năm 1959, một cuộc khởi nghĩa của người Tạng đã nổ ra ở Lhasa. Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 phải lưu vong. Ngày 29/3, Ban Thiền Lạt Ma đã từ Shigatse vội vã đến Lhasa để thay quyền chủ tịch, tiếp quản cả các công việc thế tục. Ở đây có một câu chuyện lớn, đó là mối bất hòa giữa Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 13 và Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 9, tức tiền kiếp của hai vị hiện tại. Lịch sử dường như là một vòng luân hồi, khi bản tôn chuyển thế lại gặp phải tình huống y hệt.
Năm 1961, Ban Thiền Lạt Ma đã có một chuyến đi khảo sát các khu vực của người Tạng. Khi chứng kiến sự đau khổ của người dân, với tính cách thẳng thắn của mình, ngài đã chất vấn các cán bộ Tứ Xuyên của ĐCSTQ: “Các người không phải nói là toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân sao? Tại sao lại nhắm mắt làm ngơ trước sự thống khổ của nhân dân?”
Sau chuyến đi, Ban Thiền Lạt Ma cảm thấy mình có trách nhiệm phải báo cáo vấn đề này lên trung ương. Vị kinh sư của ngài, Phật sống Ân Cửu, đã khuyên can: “Ngài đã quên cảnh tượng ở hội nghị Lư Sơn năm 1959 rồi sao? Bây giờ phong trào chống hữu khuynh vẫn chưa qua, không thể hành động thiếu suy nghĩ được.”
Một vị Phật sống tất nhiên có thể nhìn thấy kết cục không tốt đẹp, nhưng mọi thứ dường như đều nằm trong kiếp số. Đối với một vị Phật sống, không thể vì lợi ích cá nhân mà tránh né hiểm nguy. Ban Thiền Lạt Ma đã nói: “Chỉ cần Phật pháp được hoằng dương, cá nhân tôi chịu một chút oan khuất cũng không có gì phải hối tiếc.”
Từ ngày đó, ngài bắt đầu khởi thảo bản “Thư bảy vạn chữ” lừng danh. Trong đó, ngài đã phê phán gay gắt cuộc đấu tranh giai cấp, việc lạm sát người vô tội, và phong trào diệt Phật ở các vùng của người Tạng. Phong trào diệt Phật diễn ra một cách vô cùng tàn nhẫn. Họ cố tình lấy Đại Tạng Kinh để làm nguyên liệu ủ phân, lấy các bức tranh Phật và kinh thư để làm giày, những hành động nhằm xúc phạm tôn giáo một cách cực đoan.
Đối với luận điệu tuyên truyền của ĐCSTQ rằng Tây Tạng cũ là một xã hội nông nô đen tối và lạc hậu, và Đảng Cộng sản TQ đã mang lại ánh sáng, Ban Thiền Lạt Ma đã phản bác: “Trong quá khứ ở Tây Tạng, cho dù có đen tối và dã man như các người tuyên truyền, nhưng lương thực chưa bao giờ thiếu thốn. Đặc biệt là do Phật giáo được truyền bá rộng rãi, bất kể sang hèn, bất kỳ ai cũng có thói quen tốt là giúp đỡ người nghèo. Người ăn xin hoàn toàn có thể sống được, tuyệt đối không xảy ra chuyện có người chết đói. Ở vùng của người Tạng mà có người chết đói, đó là sự sỉ nhục của Phật giáo.”
Cuối cùng, ngài đã hô hào: “Đừng để chúng sinh đói khổ, đừng để Phật pháp bị diệt vong, đừng để người dân xứ tuyết của tôi bị diệt chủng!”
Sau khi bản thư được công bố, Chu Ân Lai và Trưởng Ban Công tác Mặt trận Thống nhất Lý Duy Hán đã hứa sẽ giải quyết các vấn đề Ban Thiền Lạt Ma nêu ra một cách có điều kiện. Nhưng không lâu sau, tại hội nghị Bắc Đới Hà, Mao Trạch Đông đã đề ra khẩu hiệu “Ngàn vạn lần không được quên đấu tranh giai cấp”, và yêu cầu “đấu tranh giai cấp phải được nói hàng năm, hàng tháng, hàng ngày.” Sau đó, có người đã đưa bản “Thư bảy vạn chữ” cho Mao. Mao đọc xong đã nói: “Cái đuôi của Ban Thiền này còn vểnh cao hơn cả phi cơ U-2”. Kết quả, bản thư bị quy kết là một cuộc phản công nhằm lật lại tình thế, chống lại giai cấp vô sản.
Ban Thiền Lạt Ma không hề khuất phục. Ngài nói: “Các người muốn tôi không nói, hoặc chuyên nói những lời giả dối dễ nghe, hoặc bắt tôi nhắm mắt làm ngơ, tôi tuyệt đối không làm được.”
Thế là, Ban Thiền Lạt Ma bị quản thúc tại gia trong một năm. Trong thời gian này, ngài đã cầu xin Phật và Bồ tát báo mộng, hy vọng thần linh có thể minh oan cho mình. Có lẽ lời cầu nguyện của một vị Phật sống thực sự đã linh nghiệm, sau đó ngài đã được thả ra. Không biết trong một năm bị giam cầm đó, Ban Thiền Lạt Ma đã nghiên cứu Phật pháp, dũng mãnh tinh tấn, hay là trong lúc bế quan, ngài đã nhìn thấu được mọi biểu hiện của ĐCSTQ.
Vừa ra tù, ngài đã đến Tây Tạng tham dự lễ hội Monlam. Ban đầu, ĐCSTQ đã ép buộc ngài phải lên án Đạt Lai Lạt Ma trong lễ hội này. Kết quả, Ban Thiền Lạt Ma lại làm một việc kinh thiên động địa. Tại đại pháp hội truyền thống ở Lhasa, trước hàng vạn người Tạng, ngài đã bất ngờ nói những lời sau: “Tây Tạng đã từng là một quốc gia độc lập. Đạt Lai Lạt Ma là quốc vương của chúng ta. Trong tương lai, Tây Tạng vẫn có quyền được độc lập.” Cuối cùng, ngài chúc Đạt Lai Lạt Ma trường thọ.
Điều này có nghĩa là gì? Đây chẳng khác nào một lời tuyên chiến với ĐCSTQ, một lời kêu gọi phục quốc gửi đến nhân dân Tây Tạng. Ban Thiền Lạt Ma đã bị bắt ngay tại chỗ và bị thẩm vấn liên tục trong bảy ngày. Sau đó, ngài biến mất, mất tự do trong một thời gian dài.
Khi Cách mạng Văn hóa bùng nổ, một nhóm sinh viên từ Học viện Dân tộc Trung ương ở Bắc Kinh đã xông vào nhà Ban Thiền Lạt Ma, lôi ngài ra đấu tố quy mô lớn. Họ bắt một vị Phật sống phải ăn phân. Cuối cùng, ngài bị tống vào nhà tù Tần Thành, chịu đựng vô vàn khổ ải.
NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI VÀ CÁI CHẾT BÍ ẨN
Tháng 10 năm 1977, Ban Thiền Lạt Ma được trả tự do, nhưng vẫn tiếp tục bị quản thúc tại gia. Mãi đến năm 1982, ngài mới chính thức có được tự do đi lại. Trong thời gian này, ngài đã sống một cuộc sống của người bình thường, kết hôn và sinh con.
Năm 1982, sau 18 năm xa cách Tây Tạng, Ban Thiền Lạt Ma đã trở về. Trong những năm sau đó, những phát biểu của ngài đối với ĐCSTQ giống như gai đâm vào lưng, và giọng điệu cũng ngày càng cứng rắn, sự phê phán cũng ngày càng gay gắt.
Tháng 1 năm 1989, lễ nhập táng xá lợi của các vị Ban Thiền Lạt Ma tiền nhiệm và đại lễ khai quang được tổ chức. Đây chính là chuyến trở về Tây Tạng cuối cùng của ngài, bối cảnh mà chúng ta đã mô tả ở đầu chương trình. Đối với Ban Thiền Lạt Ma, ngài đã biết mình sẽ viên tịch tại Tây Tạng, nhưng không thể nói ra cho người thân và những người tuỳ tùng ở Bắc Kinh.
Ngày 23 tháng 1, Ban Thiền Lạt Ma đã có một bài phát biểu, chỉ trích kịch liệt chính sách của ĐCSTQ ở Tây Tạng. Ngài cho rằng, cái giá mà Tây Tạng đã phải trả trong 30 năm qua còn lớn hơn rất nhiều so với những lợi ích mà sự phát triển mang lại. Ngày 25 và 26/1, ngài đã lần lượt làm lễ quán đảnh cho hơn 50.000 tín đồ.
Ngày 27/1, Ban Thiền Lạt Ma nói: “Trong đại lễ khai quang Tashilhunpo, giá như tôi có thể nói thêm một câu này thì tốt biết mấy: ‘Tôi và Đạt Lai Lạt Ma đều là đệ tử của Tông Khách Ba. Tại đại lễ khai quang long trọng này, tôi rất nhớ người bạn đồng đạo của mình, Đạt Lai Lạt Ma’.”
Ngày 27 tháng 1, ngày cuối cùng đã đến gần. Bên ngoài cung điện của Ban Thiền, một cơn gió vàng cực mạnh bất ngờ nổi lên. Ban Thiền vén rèm cửa sổ nhìn ra và nói: “Cơn gió vàng lớn như vậy, trước nay chưa từng thấy.” Sau này, người dân địa phương nói rằng, đó là tín hiệu Ban Thiền Lạt Ma sắp quy thiên. Sáng ngày 28/1, một dải cầu vồng đột nhiên xuất hiện nơi chân trời. Trái tim vốn luôn khỏe mạnh của Ban Thiền Lạt Ma đột ngột phát bệnh, và ngài đã viên tịch.
Do những phát biểu gần đây của Ban Thiền Lạt Ma và tình hình căng thẳng ở các vùng của người Tạng, cái chết của ngài đã gây ra rất nhiều lời đồn đoán. Sau đó, vụ việc về linh đồng chuyển thế lại càng khiến thế giới bên ngoài và người dân Tây Tạng phẫn nộ.
Theo quy định của Phật giáo Tây Tạng, linh đồng chuyển thế của Ban Thiền và Đạt Lai phải được công nhận lẫn nhau. Cục Tôn giáo của ĐCSTQ lúc đó đã xin chỉ thị của Giang Trạch Dân về cách xử lý. Giang Trạch Dân đã đập bàn và nói: “Là tôi quyết định, hay là Đạt Lai Lạt Ma quyết định?”
Thế là, Cục Tôn giáo của ĐCSTQ đã cưỡng ép chỉ định một linh đồng chuyển thế giả của Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10 và thao túng nghi lễ rút thăm từ Kim Bình. Cục trưởng Cục Tôn giáo, Diệp Tiểu Văn, đã từng tự mình nói một cách ngạo mạn rằng: “Mọi người có thể chú ý xem, dưới đáy của chiếc bình rút thăm, tôi đã lót một ít bông gòn, để cho que thăm có thể dài hơn một chút, bảo đảm rằng chúng tôi có thể rút được đúng que thăm đó.”
Trong khi đó, linh đồng chuyển thế của Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10 do Đạt Lai Lạt Ma chỉ định, một cậu bé Tây Tạng tên là Gedhun Choekyi Nyima, cùng với cha mẹ đã bị cảnh sát bắt cóc. Những người Tạng lưu vong gọi Gedhun Choekyi Nyima là tù nhân chính trị nhỏ tuổi nhất thế giới, và cho đến nay, tung tích của cậu vẫn là một bí ẩn.
Ban Thiền Lạt Ma đã trải qua vô vàn gian truân. Trong những năm cuối đời, trước khi viên tịch, ngài luôn mang theo bên mình hai vật. Một là cuốn từ điển Tân Hoa đã sờn cũ, và hai là một chiếc chăn bông. Cuốn từ điển Tân Hoa là vật ngài đã dùng để học tiếng Hán khi bị giam trong nhà tù Tần Thành. Các góc của cuốn từ điển đã bị mòn thành hình tròn. Lần này, khi chủ trì đại lễ khai quang, Ban Thiền Lạt Ma vẫn mang theo cuốn từ điển đó. Còn chiếc chăn bông là vật ngài đã dùng khi bị giam cầm, mất tự do. Việc không quên đi những ngày tháng đen tối đó đã luôn đồng hành cùng vị Phật sống này trên chặng đường cuối cùng của cuộc đời.
***