Trong văn hóa truyền thống Việt Nam, ngoài tục tiễn ông Táo về Trời, dựng cây nêu, gói bánh chưng, làm dưa hành ra… thì tục treo câu đối Tết cũng đã có từ lâu đời, thể hiện trí tuệ và chí hướng, phẩm đức của người Việt.

Ông đồ viết câu đối Tết.

Trong dân gian còn lưu hành câu thơ về Tết truyền thống người Việt:

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh.

Vậy nên cứ mỗi độ Tết về, nhà nhà đều tìm đến các ông đồ Nho hay chữ, có đức độ, tiết tháo, được mọi người kính trọng để xin câu đối Tết. Câu đối Tết được trang hoàng nhà cửa, cũng nói nên nguyện vọng và mong muốn một năm mới hạnh phúc bình an, làm ăn thuận lợi, sự nghiệp hanh thông:

Ông đồ viết câu đối Tết.

Xuân an khang đức tài như ý
Niên thịnh vượng phúc thọ vô biên.

Câu đối Tết cũng thể hiện tiễn đưa năm cũ, tống táng vận xấu cũ đi, đón vận mới tốt lành đến với gia đình:

Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa

Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

Nguồn gốc câu đối Tết

Câu đối tết có khởi nguồn từ đào phù, tức là tấm bùa bằng gỗ cây đào. Đào phù bắt đầu từ thời nhà Chu, là hai tấm gỗ đào hình chữ nhật treo hai bên cửa. Theo “Hậu Hán thư – Lễ nghi chí” thì: “Đào phù dài 6 tấc (khoảng 20 phân), rộng 3 tấc (khoảng 10 phân), trên đào phù viết tên hai vị Thần chế phục ác ma là Thần Đồ và Uất Lũy. Ngày mồng 1 Tết, treo đào phù ở cửa, có thể khiến trăm loài quỷ đều sợ hãi tránh xa”. Đào phù có thể xua đuổi ma quỷ, trấn áp ma tà, tiêu tai giải họa, đón lành tránh hung.

Đến thời Ngũ Đại, trong cung đình nhà Tây Hán bắt đầu viết câu đối lên đào phù. Theo “Tống sử – Thục thế gia” có viết: Hậu Thục chủ Mạnh Sưởng lệnh cho học sỹ Chương Tốn viết lên đào phù 2 câu đối:

Tân niên nạp dư khánh
Gia tiết hiệu trường xuân.

Tạm dịch:

Năm mới thừa phúc lành
Tết đẹp mãi trường xuân.

Đây chính là câu đối Tết đầu tiên trong lịch sử các nước Á Đông.

Từ đời Tống trở đi, trong dân gian đã phổ biến tục treo câu đối Tết. Các công sở quan phủ, nha môn, các quan đứng đầu đã bắt đầu tự soạn viết câu đối Tết, để biểu lộ nguyên tắc, tiết tháo, phong cách làm quan của mình.

Viết câu đối. (Tranh dân gian)

Đến thời Minh đổi tên gọi đào phù thành “Câu đối Tết” (Xuân liên). Tương truyền, triều Minh Thái Tổ, vào một năm khi Tết đến, Chu Nguyên Chương truyền chỉ cho dân chúng cả nước phải treo một đôi câu đối trước cửa nhà, để biểu thị niềm vui đón mừng năm mới. Khi Chu Nguyên Chương hóa trang vi hành, đọc thấy nội dung những câu đối vô cùng phong phú thì rất mãn nguyện. Đi tiếp, ông thấy trên cửa nhà của một gia đình nọ vẫn chưa có câu đối; hỏi thăm thì biết được đó là nhà của một người chuyên nghề hoạn lợn, chưa nhờ được người viết cho câu đối. Vị hoàng đế này bèn sai tùy tùng lấy giấy bút, rồi vung tay viết đôi câu đối tặng chủ nhà:

Hoàng đế Chu Nguyên Chương. (Ảnh: wikipedia.org)

(Câu đối của Chu Nguyên Chương viết tặng
người làm nghề hoạn lợn:
Hai tay động đến đường sinh tử
Một nhát đi đời gốc thị phi)

Song thủ tịch khai sinh tử lộ
Nhất đao cát đoạn thị phi căn.

Tạm dịch:

Hai tay động đến đường sinh tử
Một nhát đi đời gốc thị phi.

Ý tứ câu đối này vô cùng xác đáng, chữ dùng cực kỳ khéo léo, lại rất hài hước. Đủ thấy, Chu Nguyên Chương quả là một “đầu lĩnh” về câu đối vậy. Sau đó, việc viết câu đối lan tỏa đến các địa phương, lâu dần bèn trở thành phong tục.

Đến triều Minh Thanh thì tất các các công sở nha môn các cấp, các quan đứng đầu đều tự soạn viết câu đối Tết treo hai bên cửa để biểu lộ chí hướng, lý tưởng làm quan của mình. Câu đối Tết của các quan xưa thường có 5 nội dung là: Không tham nhũng không hối lộ; Yêu dân như con; Luật pháp nghiêm minh, hành sự thận trọng; Ước chế bản thân phụng sự việc công; Chăm lo chính sự, vỗ yên bách tính. Một vài câu đối minh họa như sau:

Dữ bách tính hữu duyên, tài lai tư địa
Tư thốn tâm vô quý, bất bỉ tư dân.

Tạm dịch:

Có duyên với bách tính mới đến nơi này
Không thẹn với lòng mình chẳng tủi dân đây.

Hay là:

Quan danh phụ mẫu tu từ ái
Gia hữu tử tôn vọng cửu trường.

Tạm dịch:

Quan như phụ mẫu nên từ ái
Nhà có cháu con mãi dài lâu.

Câu đối Tết ở nước ta

Thú chơi câu đối và câu đối Tết cũng dần dần lan ra khắp các nước Á Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc. Hiện nay chưa rõ thú chơi câu đối và câu đối Tết vào nước ta từ thời nào, nhưng đến thời Trần thì đã xuất hiện thú chơi câu đối phổ biến, nó còn thể hiện của tài năng trí tuệ. Tương truyền năm 1308, Mạc Đĩnh Chi được vua Trần Anh Tông cử đi sứ nhà Nguyên. Do mưa to gió lớn nên sứ bộ nước ta qua cửa ải trễ ngày giờ hẹn định. Viên quan giữ cửa ải đóng chặt cửa không cho sứ bộ đi qua. Sau đó họ vứt xuống một vế đối hết sức hiểm hóc, bảo đối được thì cho qua. Vế đối như sau:

Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan!
(Qua cửa trễ, cửa quan đóng, mời khách qua qua cửa!)

Mạc Đĩnh Chi. (Ảnh minh hoạ – Sách “Mạc Đĩnh Chi” của NXB Kim Đồng – Ảnh dẫn từ violet.vn)

Vế ra có 3 chữ quá, 4 chữ quan lặp lại, ý lại thách thức sứ bộ Đại Việt tìm cách mà qua cửa ải. Mạc Đĩnh Chi thấy đối chuẩn về từ không phải dễ nên linh hoạt chọn cách đối ý rằng:

Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối!
(Ra đối dễ, đáp đối khó, mời tiên sinh đối trước!)

Viên quan giữ cửa ải phục quá, hô binh lính thắp đuốc, mở cửa quan cho sứ bộ Đại Việt đi qua.

Vua Lê Thánh Tông. (Minh hoạ trong bộ tranh truyện lịch sử Việt Nam)

Đến thời Hậu Lê, tức là cùng với thời nhà Minh bên Trung Quốc, thì phong tục chơi câu đối Tết cũng đã phổ biến trong dân gian rồi. Một năm vào dịp Tết đến, vua Lê Thánh Tông cải trang vi hành để xem xét tình hình bách tính. Thấy xã tắc thái bình, bách tính an cư lạc nghiệp, nhà nhà đều treo đèn kết hoa, treo câu đối đỏ, nhà vua trong lòng vui mừng lắm. Vua đi qua một nhà nọ, thấy không đèn, không hoa, không câu đối, không khí ảm đạm trầm trầm, vua bèn vào hỏi han. Chủ nhà nói, do làm cái nghề hèn hạ là hót phân người nên không dám phô ra, không đèn hoa câu đối gì hết.

Nhà vua cười rồi nói: “Nhà bác đây là sang trọng bậc nhất, mà nghề của bác cũng là vẻ vang bậc nhất. Câu đối của bác nếu dán lên cũng hay bậc nhất, việc gì mà lại kêu là hèn”. Nói rồi vua liền lấy giấy bút viết tặng 2 câu đối:

Vua Lê Thánh Tông. (Minh hoạ trong bộ tranh truyện lịch sử Việt Nam)

Ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự
Ðề tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm.

Tạm dịch:

Khoác một áo bào, đảm đang khó khăn thiên hạ
Cầm ba thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian.

Khách qua lại, nhìn thấy câu đối ai cũng dừng lại ngắm nghía thưởng thức, từ ý nghĩa, vế đối, đến cảnh giới tâm hồn đều rất cao siêu, nét chữ rắn rỏi lại mềm mại bay lượn, bút lực mạnh mẽ, phóng khoáng khiến ai nấy đều trầm trồ thích thú.

Thay cho lời kết

Sau này câu đối mở rộng từ chữ Hán sang chữ Nôm, rồi mấy chục năm gần đây đã chuyển sang dùng cả chữ quốc ngữ (chữ Latin). Câu đối cũng như câu đối Tết là đặc sản của các nước Á Đông vì đặc điểm mỗi chữ một âm tiết, lại có các âm điệu, thanh điệu trầm bổng, bằng trắc khác nhau, nên khi đọc, ngoài ý nghĩa chữ nghĩa ngôn từ cô đọng đặc sắc ra, còn nghe rất vui tai.

Nhân dịp năm mới Tết đến xuân về, chuyên mục Văn Hóa, thời báo Đại Kỷ Nguyên xin được chúc Tết các quý vị độc giả bằng câu đối:

(Văn hóa huy hoàng, tìm đạo đức quay về truyền thống đẹp).

(Văn minh rực rỡ, đến tương lai tái tạo Đại kỷ nguyên).

“Món quà ngày Tết”. (Tranh của hoạ sỹ Vũ Thụy)

Xin cảm ơn các quý vị độc giả đã đón đọc và cổ vũ khích lệ chúng tôi trong suốt những năm qua, kính chúc chư vị:

Xuân an khang đức tài như ý
Niên thịnh vượng phúc thọ vô biên.

Nam Phương