Đại Kỷ Nguyên

Bí mật chưa từng tiết lộ về thứ vũ khí nguy hiểm nhất của Gia Cát Lượng xua tan vạn hùng binh (Phần 1)

Gia Cát Lượng là bậc đại chí đại tài. Ông không chỉ nổi tiếng về tài thần cơ diệu toán, mà còn có  khả năng biện luận sắc sảo, ngôn từ có sức mạnh như ngàn vạn gươm đao. Khả năng “tâm lý chiến” của Gia Cát Lượng lưu truyền từ thời Tam Quốc đến ngày nay càng khiến hậu thế thêm khâm phục tài trí con người này. 

Mắng chết Tư đồ Vương Lãng trước ba quân 

Năm Kiến Hưng thứ năm nhà Thục Hán (dưới thời Lưu Thiện), Gia Cát Lượng cất quân Bắc phạt. Đô đốc nước Nguỵ là Tào Chân cùng với quân sư là Vương Lãng bấy giờ đã 76 tuổi, đem 20 vạn quân Nguỵ ra chống cự. Hai bên dàn quân, Vương Lãng sai mời Gia Cát Lượng ra trước trận nói chuyện.

Màn chào hỏi giữa Gia Cát Khổng Minh và Tư đồ Vương Lãng trước quân đội hai bên.

Vương Lãng muốn dùng 3 tấc lưỡi để dạy đời và chiêu hàng Gia Cát Lượng. Sau khi nghe Vương Lãng nói hết, Gia Cát Lượng phe phẩy quạt lông, cứng rắn đáp lời:

Ta tưởng ông là lão thần nhà Hán. Trước ba quân tướng sĩ dâng hiến cao luận gì. Nào ngờ, ông dám thở ra những lời lẽ thô bỉ, hôi thối đến thế. Tôi có mấy lời xin chư vị lắng nghe: 

Trước đây dưới thời Hoàn Đế, Linh Đế, giường cột nhà Hán rối tung, hoạn quan gây họa, giặc cướp hoành hành, bốn phương hỗn loạn. Tiếp đó, Đổng Trác, Quách Dĩnh, Lý Thôi thừa dịp nổi lên ức hiếp thiên tử, tàn hại sinh linh. Vì vậy chỗ Triều đình gỗ mục làm quan, nơi cung cấm cầm thú ăn lộc, một lũ sói lang chấp chính cầm quyền, nên xã tắc biến thành gò hoang, trăm họ dân lành điêu linh thống khổ. Trong cơn quốc nạn đó, quan tư đồ Vương Lãng đã làm gì?

Hành tung Vương Tư đồ ta còn lạ gì. Ông ra đời ven bờ Đông Hải, lấy danh nghĩa ‘hiếu liêm’ mà bước lên chốn quan trường. Là bề tôi nhà Hán, đáng lẽ ông phải góp sức yên dân, khôi phục chính thống, dựng lại hộ Lưu. Nhưng không, ông đã hùa theo nghịch tặc, đồng mưu cướp ngôi, tội ác chất chồng, trời đất không dung.

Vương Lãng nghẹn lời: “Tên thôn phu Gia Cát Lượng mi dám…

Gia Cát Lượng thấy kế tâm lý chiến của mình quả thực đã phát huy tác dụng đúng như ý, bèn bồi tiếp:

Câm ngay! Tên giặc già vô liêm sỉ. Ngươi không biết muôn dân khắp bốn cõi đang muốn xé xác, moi gan mi sao còn múa mép. Chiêu Liệt hoàng đế ta nối dựng đại Thục ở Tây Xuyên. Nay ta vâng chiếu chỉ tự quân xuất nghĩa phạt tặc. Kẻ đớn hèn, xu nịnh như mi như rùa rụt cổ khom lưng cầu xin bát cơm thừa, manh áo cũ cho xong sao còn dám ra trước hàng quân mà nói năng càn rỡ, đổi tại số trời. Tên thất phu đầu bạc, tên giặc già râu trắng kia. Nay mai dưới suối vàng mi còn mặt mũi nào mà thấy 24 tiên đế nhà Hán ta. Tên nghịch tặc nhục nhã, mi sống uổng 76 năm trời, mồm nói Thuấn, Nghiêu mà bán mình cho Tào Tháo. Mi không biết thân phận khuyển ưng mà ra trước hàng quân nói năng càn rỡ. Xưa nay ta chưa thấy ai mặt dày vô liêm sỉ như ngươi!

Tư đồ Vương Lãng không chịu nổi những lời mắng nhiếc của Gia Cát Lượng, đã tức khí mà chết.

Nói tới đây, Vương Lãng uất giận, hú lên một tiếng mà ngã đột tử dưới chân ngựa. Tất thảy ba quân đều kinh hãi, tướng Nguỵ là Tào Chân thất kinh, còn Gia Cát Lượng thì ngồi xuống, nở một nụ cười nhẹ nhàng, tay khuơ quạt nhìn kết quả.

Gia Cát Lượng thấy gì? Trận này hoàn toàn có thể thắng được bằng nghệ thuật tâm lý chiến khi sử dụng “ba tấc lưỡi”. Lý do là vì, thứ nhất, địch quân sử dụng phép ‘chiêu hàng’ bằng võ miệng chứ không phải là bằng võ lực. Và đối thủ lần này không phải là Tào Chân, mà là tư đồ Vương Lãng.

Vương Lãng là lão thần 2 triều (Hán – Nguỵ). Đây là “điểm chết” của ông, đi ngược lại câu: “Tôi trung không thờ hai chủ“, thực sự là kẻ bất trung! Mặc dù rất nhiều người đều hiểu: “Kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt“. Thế nhưng, trên chiến trường để đạt được mục đích của mình, Khổng Minh đã cố tình bỏ qua điều đó, chỉ tập trung vào chữ “Trung” mà thôi. Vương Lãng là một lão thần 76 tuổi già nua, sức khoẻ không đảm bảo nếu như bị kích động thái quá. Gia Cát Lượng không cần đọ sức bằng võ lực, chỉ cần dùng đòn tâm lý là đủ.

Sau khi phân tích rõ thực lực của đối thủ, chỉ trong thời gian rất ngắn, Gia Cát Lượng đã hoàn toàn biết mình nên phải làm gì trong trường hợp này.

Xác định được mạnh – yếu của đối thủ rồi từ đó ra đòn quyết định, đó là cách hành xử của một người am hiểu binh thư. Với nghệ thuật diễn xuất, lý luận bậc thầy và miệng lưỡi sắc bén, như ngàn mũi giáo, mũi gươm, Gia Cát Lượng đã hạ gục quân sư của kẻ địch chỉ trong nháy mắt, làm kẻ địch vừa thiệt tướng, vừa mất tinh thần dẫn đến đại bại.

Thổi bay 15 vạn quân Tào chỉ bằng một tiếng đàn

Trong cuộc Bắc phạt lần đầu, Mã Tốc làm mất Nhai Đình, đường vận lương cung ứng cho quân đội bị cắt khiến Gia Cát Lượng đành ra lệnh rút quân. Trước khi rút, ông ra Tây Thành để vận chuyển nốt 20 vạn thạch lương còn lại. Binh sỹ đi theo ngoài bộ tướng Khương Duy với 300 giáp sĩ hộ vệ chỉ còn lại 2000 binh sỹ già yếu.

Vận lương Tây Thành chưa xong, Tư Mã Ý đột nhiên kéo đại binh đến. Khói bụi mù trời, Khương Duy kiến nghị nhanh chóng rời bỏ Tây Thành tháo chạy về Thục. Nhưng Gia Cát Lượng cho rằng chạy tất chết không thể nào thoát khỏi thiết kỵ của Tư Mã Ý được.

Tư Mã Ý thúc quân tới Tây Thành.

Lượng quyết định đánh cược một phen với trời về số phận của chính mình. Quân Thục mở tung cổng thành, cắt mấy chục lính làm dân phu, lùa súc vật đi ăn cỏ, và quét cổng thành cho sạch sẽ gọn gàng, bản thân Gia Cát Lượng ôm đàn lên lầu độc tấu thất huyền cầm chống hùng binh Tư Mã Ý.

Ý dẫn quân kéo đến Tây Thành, thấy phong cảnh như vậy lấy làm lạ, đăm chiêu nghe Gia Cát Lượng gẩy đàn một lúc, rồi hạ lệnh đổi tiền quân làm hậu quân nhanh chóng tháo lui.

Tư Mã Chiêu (con Tư Mã Ý) bảo: “Ngộ nhỡ Gia Cát Lượng không có quân, bày ra thế thì sao?”. Ý nói rằng: “Tiếng đàn tranh này mạnh bạo giống như sóng ba đào, cuồn cuộn nổi lên, tựa như là có bá vạn hùng binh… giống như là dòng suối róc rách, nếu như không là người tinh ý chắc chắn không thể ngờ được”.

Tư Mã Chiêu lại hỏi: “Thưa cha, chỉ là mấy sợi dây đàn, có thể truyền thần tới vậy sao chứ?”. Ý trả lời: “Tâm loạn, tiếng đàn sẽ rối loạn, tâm tịnh, tiếng đàn sẽ yên tịnh thôi, tâm loạn thì âm loạn, tâm tịnh thì âm sắc. Nghe Gia Cát Lượng đánh đàn, nhìn thấy rõ tâm can hắn, ta nghe được tiếng đàn của Gia Cát Lượng là một vinh hạnh rồi”. Sau đó lập tức truyền lệnh rút quân, tháo lui khỏi Tây Thành.

Một phen ‘hú vía’ với Gia Cát Lượng.

Quân Ngụy rút chạy rồi, Gia Cát Lượng thốt lên: “Trời xanh cứu ta, Tư Mã Ý thực là hiểu âm luật”. Về phần Tư Mã Ý về đến trại, kéo ghế cho Tư Mã Sư ngồi, nghe con nói qua tình hình Tây Thành rồi bảo: “Ta thua Khổng Minh ở số trời, số trời không giúp ta”.

Vậy rốt cuộc ‘trời xanh’ đã giúp Gia Cát Lượng điều gì? Và ‘số trời’ đã không giúp Tư Mã Ý điều gì? Điều này chắc chắn là có liên quan đặc biệt đến tiếng đàn mà Gia Cát Lượng đánh. Đó không phải là nhờ ‘may rủi’ theo kiểu đỏ đen, mà là ‘may rủi’ bằng nghệ thuật thuyết phục lòng người – ‘Tâm lý chiến”.

Vậy trong tiếng đàn Gia Cát ở Tây Thành có những gì, âm luật gì vậy? Qua tiếng đàn (qua âm luật) Gia Cát Lượng đã gửi tâm ý của mình đến Tư Mã Ý, một người cũng am tường âm luật như mình một thông điệp: “Nhà Ngụy ba đời liền nghi ngờ, cảnh giác ông. Sở dĩ ông được làm nguyên soái thống lĩnh ba quân là bởi tôi cầm binh nước Thục công phá Ngụy Quốc. Tôi chết rồi, mối lo về Thục quân không còn, Ngụy Đế tất sẽ khiến ông không toàn mạng sống. Xưa nay thỏ khôn chết thì chó săn bị nấu, chim bay cao chết thì cung mạnh bị cho vào bếp, đó là lẽ thường”.

Năm xưa Hán Cao Tổ Lưu Bang sau khi bình định được Trung Nguyên đã thẳng tay cùng Lã Hậu trừ khử các đại thần như Hàn Tín – ảnh, Anh Bố, Bành Việt. (Ảnh: Internet)

Cũng giống như Hàn Tín xưa kia vậy, lấy một nửa giang sơn cho nhà Hán, xong bị Lữ Hậu giết chết. Phạm Lãi và Văn Chủng sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn diệt vua Ngô Phù Sai thì cũng bị giết, chỉ duy có Phạm Lãi hiểu ý này nên đã mai danh ẩn tích nên bảo toàn được mạng sống. Hay như trong sử Việt, Đặng Trần Thường và Nguyễn Văn Thành theo phò vua Gia Long – Nguyễn Ánh, sau khi đại nghiệp hoàn tất đều bị giết, đó chính là ‘quy luật’.

Lắng nghe tiếng đàn Gia Cát Khổng Minh, Tư Mã Ý cấp tốc tháo lui khỏi Tây Thành. Thả Gia Cát Lượng đi thoát cũng đồng thời tạo đường sống, hậu vận cho mình và con cháu. Đó chính là ‘ý trời’ mà cả Gia Cát Lượng và Tư Mã ý đều nói đến. Những lời còn lại của Gia Cát nói với Khương Duy, hay Tư Mã ý nói với con trai, chỉ là một phần sự thật để che đi pha thương thuyết qua tiếng đàn giữa hai nhân vật cự phách này.

Một người tấu, một người thưởng giữa trận tiền, có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh có một khung cảnh đặc biệt như thế này.

Thấu hiểu điểm mạnh – yếu của đối phương (Tư Mã Ý), biết Ý tinh thông thứ gì, không biết thứ gì, mà tùy cơ sử dụng. Còn nếu chỉ như là nhắm mắt làm bừa, rồi trông chờ  vào may rủi kiểu cờ bạc, điều này có thể đúng với những mưu sỹ tầm thường và những võ phu ‘hữu dũng vô mưu’, nhưng với Gia Cát Lượng thì hoàn toàn sai. Ông không bao giờ làm như vậy, vì ông có một trí thông minh tuyệt đỉnh, không phải là kẻ phàm nhân như bao người khác, vì vậy mới lưu danh thiên cổ.

Bình sinh từ bé, Gia Cát Lượng là một Đạo sỹ ẩn danh, đã khổ luyện cùng Sư Phụ của mình, và truyền thụ tinh hoa trong môn Đạo gia của mình, tâm tính đã đạt đến cảnh giới rất cao. Sống cuộc đời ẩn dật nơi rừng sâu núi thẳm, quanh năm chỉ thấy trò chuyện với các bạn tâm giao như: Thôi Châu Bình, Thạch Quảng Nguyên, Mạnh Công Uy và Từ Nguyên Trực… uống rượu, ngâm thơ, bình luận thiên hạ, thời cuộc.

Mãi cho đến khi Lưu Bị ba lần tới thăm lều cỏ mới tỏ nổi tấm chân tình, làm cảm động ông, cũng bởi vì ông đã thấy thiên tượng biến đổi, đã đến lúc mình xuất sơn đi thực hiện sứ mệnh mà lịch sử giao phó, trợ giúp Lưu Bị đăng cơ, phân định ra Tam Quốc, và diễn thành công chữ “Nghĩa” lưu truyền hậu thế.

Quả nhiên sau này Khổng Minh Bắc phạt, Tư Mã Ý soái lĩnh Ngụy quân chống lại, dần dần bồi dưỡng thực lực làm nên cuộc đảo chính phế Tào Sảng, nắm giữ binh quyền nước Ngụy. Tài trí Khổng Minh vang danh hậu thế phần nhiều cũng nằm ở những lần đối trận với Tư Mã Ý.

Ánh Trăng 

Hữu Bằng hiệu đính 

Xem thêm:

Exit mobile version