Đại Kỷ Nguyên

Đại chiến Xích Bích: Vì sao trăm vạn quân Tào Tháo thua đau Gia Cát Lượng và Chu Du? (Kỳ 2)

Lời toà soạn: Lịch sử 5.000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Á Đông gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay. 

Trong lịch sử Tam Quốc, có thể coi Xích Bích là trận chiến trọng yếu nhất, quyết định thế chân vạc chia ba thiên hạ. Trong tiểu thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung đã miêu tả vô cùng sống động về cuộc chiến này, nào là trùng trùng thiên quân vạn mã, anh hùng hào kiệt, nào là trùng trùng kế sách mưu toan, liên hoàn kế, mượn gió đông, đánh hỏa công.

Các văn nhân đời sau cũng thi nhau cảm khái về trận đại chiến này. Tô Đông Pha viết 2 bài phú về Xích Bích, Đỗ Phủ cũng từng làm thơ: “Đông phong bất dữ Chu Lang tiện. Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều” (Gió đông nếu chẳng giúp Chu Lang. Cảnh xuân thâm nghiêm đài Đồng Tước đã khóa chặt 2 nàng Kiều).

Xem thêm: Kỳ 1

Đại chiến khai màn

Lại nói, quân Ngô chia làm hai lộ thủy bộ đến đánh úp Tào doanh từ nhiều hướng. Cam Ninh dẫn quân đến chiếm kho lương của Tào Tháo ở rừng Ô Lâm. Thái Sử Từ lĩnh 3000 quân tiến gấp đến Hoàng Châu, cắt đứt viện binh quân Tào. Lã Mông dẫn thêm 3000 quân đến Ô Lâm tiếp ứng, phóng hỏa đốt trại quân Tào. Lăng Thống cầm 3000 quân đến biên giới Di Lăng, thấy Ô Lâm nổi lửa thì ra tiếp ứng. Đổng Tập lĩnh 3000 quân đến thẳng Hán Dương đánh trại Tào. Phan Chương lĩnh 3000 quân đến Hán Dương tiếp ứng cho Đổng Tập.

Cắt đặt xong 6 đội binh mã đâu vào đấy, Chu Du mật lệnh cho Hoàng Cái dùng hỏa thuyền chèo sang trại Tào trá hàng, đằng sau lại có bốn đội thuyền tiếp ứng. Lỗ Túc được lệnh ở lại giữ vững bản doanh. Chỉ thấy Chu Du ung dung điều binh khiển tướng, thủy bộ hai đường cùng tiến, đợi lúc hoàng hôn, đánh một trận phân định thắng thua. Tô Đông Pha sau này trong “Niệm nô kiều – Xích Bích hoài cổ” viết về Chu Du thế này:

Dao tưởng Công Cẩn đương niên
Tiểu Kiều sơ giá liễu
Hùng tư anh phát
Vũ phiến luân cân
Đàm tiếu gian
Cường lỗ hôi phi yên diệt

(Nhớ Công Cẩn năm ấy, mới cưới Tiểu Kiều, anh hùng oai phát, quạt lông khăn lượt, nói nói cười cười mà quân giặc cháy thành tro bụi).

Chu Du và Tiểu Kiều. Ảnh dẫn theo soha.vn

Lại nói, Lưu Bị ở doanh trại, ngày đêm trông ngóng tin tức Khổng Minh, bèn xuôi thuyền xuống Hạ Khẩu, đợi đón quân sư trở về. Đúng vào lúc gió Đông Nam nổi lên cuồn cuộn, một chiếc thuyền con thuận đà vun vút trở về bờ bắc. Chính là hổ tướng Triệu Vân hộ tống Gia Cát Lượng về lại bản doanh. Nguyên Chu Du vẫn có ý đề phòng Gia Cát Lượng, không khỏi băn khoăn, từng phái người đến đài cầu gió “mời” Gia Cát Lượng về. Nhưng Gia Cát Lượng sớm đã dự liệu chuyện này, trước đó đã hẹn Lưu Bị hễ thấy gió Đông nổi lên thì phái Triệu Vân đem theo thuyền nhỏ tới hộ tống mình trở về an toàn. 

Cầu được gió Đông, Gia Cát Lượng liền phất áo ra đi, tránh va chạm không đáng có giữa hai nhà Tôn – Lưu để cùng nhau toàn lực kháng Tào. Gia Cát Lượng vốn là người tu Đạo, có tài tiên tri, sớm nhìn ra thế cục cuộc chiến lần này. Sở dĩ ông vội vã ra đi không phải bởi sợ Chu Du làm hại mình mà chính là muốn trở về trại Thục cắt đặt mưu kế riêng, tranh thủ lúc Ngô Ngụy đại chiến mà thu lấy lợi thế cho riêng mình.

Nhận thấy đây là thời cơ có một không hai, không chớp lấy thì sẽ vụt mất, Gia Cát Lượng không quản mệt nhọc, vừa từ đất Ngô về liền cùng Lưu Bị và chư tướng hội đàm, lên trướng nghị sự. Khổng Minh cho rằng Chu Du tất sẽ đánh bại quân Tào một trận oanh liệt trên chiến trường Xích Bích nên muốn tập trung quân lực phong tỏa đường rút lui của Tào Tháo.

Triệu Vân được lệnh dẫn 3000 quân mai phục ở đường mòn Ô Lâm, chỉ cần giết được một nửa quân Tào. Trương Phi lĩnh 3000 binh qua sông, cắt đứt đường Di Lăng, mai phục trong hang, đợi lúc quân Tào thổi cơm thì xông ra đánh. Mi Chúc, My Phương, Lưu Phong mấy người được lệnh chèo thuyền quanh sông, vây bắt quân Tào, tước lấy khí giới, chiến lợi phẩm. Công tử Lưu Kỳ (con Lưu Biểu) vâng mệnh thủ chặt ở Vũ Xương, thấy quân Tào chạy qua thì xông ra đón đánh. 

Các tướng vâng mệnh đi ra, chỉ còn sót lại một mình Quan Vũ đứng trơ trọi, đăm chiêu chờ đợi, mãi không thấy được Khổng Minh giao cho việc gì, không nhịn được bèn nói: “Tôi từ khi theo anh tôi đi đánh dẹp đến nay kể cũng đã lâu, chưa khi nào phải lùi lại sau. Nay gặp trận đánh to thế này, không thấy quân sư hỏi han gì đến là ý làm sao?“. 

Khổng Minh cho rằng Quan Vũ đã từng chịu ân Tào Tháo, tất không nỡ tay giết họ Tào, ngập ngừng không muốn giao đại sự. Tuy nhiên Quan Vũ cứ một mực khăng khăng đòi đi, nói rằng Tào Tháo tuy có ân thật nhưng mình đã chém Nhan Lương, Văn Xú để đền ân, coi như không ai nợ ai gì. Quan Vũ lại xin được lập quân lệnh trạng, nếu không bắt được Tào Tháo thì chịu xử theo phép công. Cuối cùng, Khổng Minh giao cho Quan Vũ yểm chặn đường hẻm Hoa Dung, lĩnh nhiệm vụ nặng nề nhất: Bắt sống Tào Tháo. 

Chuyện về sau không cần kể tiếp có lẽ ai cũng đã rõ. Ở hẻm Hoa Dung, một Quan Vũ trọng nghĩa khí đã tha chết cho Tào Tháo và bộ tướng, chấp nhận về trại chịu phạt. Khổng Minh vốn biết Quan Vũ sẽ tha cho Tào Tháo, chỉ là lợi dụng chuyện ở ải Hoa Dung để Quan Vũ có thể trả sạch món nợ ân tình, về sau không còn phải day dứt.

Ngoài ra, nếu Tào Tháo chết trong tay quân Thục thì Lưu Bị tất trở thành kẻ thù số một của quân Ngụy, sẽ phải lãnh một đòn thù khủng khiếp từ quân Tào khi thực lực còn mỏng yếu. Để cho Tào Tháo chạy thoát chính là dồn mối thù trận thua Xích Bích về phía Tôn Quyền và Chu Du, đó thực sự là một nước cờ cao tay vậy. 

Ở hẻm Hoa Dung, Quan Vũ trọng nghĩa khí đã tha chết cho Tào Tháo và bộ tướng, chấp nhận về trại chịu phạt. Ảnh dẫn theo soha.vn

Gió thổi lửa bùng, thiên hạ chia ba

Sau khi Chu Du, Gia Cát Lượng phân bố binh mã xong xuôi, ở bên ngoài doanh trại quân Tào, Hoàng Cái cũng bắt đầu dong thuyền đến trá hàng. Khi thuyền đi đến quãng giữa sông, Hoàng Cái lệnh cho binh sĩ châm đuốc dẫn lửa. Cả đội 20 chiếc thuyền phút chốc biến thành 20 ngọn lửa cháy hừng hực, theo gió vun vút lao tới.

Tào Tháo bấy giờ mới tỉnh ngộ vì trúng liên hoàn kế nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Hoàng Cái huơ đao chỉ huy quân sĩ đâm thuyền lửa vào thủy trại quân Tào. Các thuyền chiến của Tào Tháo vốn đã bị đóng dây xích sắt chặt với nhau, không cách nào chạy nổi, lửa cháy lan ra nhanh chóng, sáng rực cả mặt sông. Đội thuyền lửa của Hoàng Cái như những con rồng lửa quần thảo trong thủy trại triệu binh giáp của quân Tào. Sông Trường Giang phút chốc biến thành sông lửa, trăm vạn quân Tào phút chốc cháy thành tro… 

Sông Trường Giang phút chốc biến thành sông lửa, trăm vạn quân Tào phút chốc cháy thành tro. Ảnh dẫn theo soha.vn

Trên bộ, quân sĩ Giang Đông cũng ùn ùn xuất chiến, gắng sức giết địch. Quân Tào thảm bại cả trên thủy lẫn trên bộ. Tào Tháo bèn dẫn hơn trăm quân kỵ hoảng hốt tẩu thoát trong đêm. Trên đường chạy về bắc, quân Tào còn mấy lần trúng mai phục do Gia Cát Lượng bày sẵn từ trước. Đến ải Hoa Dung tưởng số đã tận, may nhờ Quan Vũ trượng nghĩa, Tào Tháo mới có thể về đến đất Ngụy an toàn. 

Sau thất bại này, quân lực Tào Ngụy tổn hao trầm trọng, Tào Tháo cũng bỏ luôn tham vọng tiến đánh Giang Nam, thống nhất thiên hạ, bèn cởi giáp về triều, lo sửa sang chính trị, kinh tế, xây dựng một Ngụy quốc hùng mạnh, đặt nền tảng cho con trai mình là Tào Phi sau này xưng đế kiến quốc. 

Nhiều người cho rằng Xích Bích chính là trận chiến quan trọng nhất thời Tam Quốc bởi nó đánh dấu sự ra đời của 3 nước: Ngụy, Thục, Ngô chia 3 thiên hạ. Tào Tháo hao tổn nguyên khí nặng nề, trở về củng cố quyền lực, đánh dẹp Tây Lương, chiếm Đông Xuyên, mở rộng thêm lãnh thổ về phía Tây, được Hán đế phong là chức Ngụy Công rồi Ngụy Vương, kiến thiết nước Ngụy ngay trong lòng nhà Hán.

Ở phía nam, Đông Ngô sau khi thắng trận Xích Bích, thực lực càng mạnh, Tôn Quyền ngồi giữ 9 quận 81 châu như hổ ngồi nhìn Trung Nguyên, bắc chẳng sợ Tào, Tây không dè Thục, ung dung tự tại. Còn Lưu Bị chính là người hưởng lợi nhất sau trận Xích Bích này. Từ chỗ phải mượn đất nương nhờ, không chốn dung thân, bị Tào Tháo truy đuổi khắp nơi, chạy loạn nửa đời, Lưu Bị thuận tay chiếm được phần lớn Kinh Châu, vốn là mảnh đất dụng võ người người thèm muốn.

Thế chân vạc từ đây chia rõ, anh hùng hào kiệt lại bước vào một vở kịch lớn đầy hứa hẹn trước mắt…

***

Có bài thơ rằng:

Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông
Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng
Thị phi thành bại theo dòng nước
Sừng sững cơ đồ bỗng tay không
Non xanh nguyên vẻ cũ
Bao độ ánh chiều hồng
Bạn ngư tiều dãi dầu trên bãi
Vốn quen nhìn gió mát trăng trong
Một bầu rượu nếp vui gặp gỡ
Chuyện đời tan trong chén rượu nồng 

Những anh hùng đã lùi vào dĩ vãng, chiến trường xưa đã cuốn lấp bụi thời gian, con đường xưa chìm trong cát bụi, thành quách xưa cũng đã hoang tàn… Chỉ còn lại những bản anh hùng ca vang vọng khắp chốn hư không. Sông Trường Giang nghìn năm chảy mãi ra biển, vùi lấp bao thị phi, hờn giận, đua tranh, oán thù, chỉ còn lại là man mác nỗi buồn tiếc thời quá khứ vàng son mà thôi.

Bức màn của lịch sử đã khép lại nhưng câu chuyện về những anh hùng thì nghìn năm kể mãi không cạn lời, viết ra bao nhiêu dòng thì càng thiếu bấy nhiêu. Xích Bích năm xưa oai hùng, Chu Du hào hoa, Khổng Minh mưu trí, Tào Tháo hào sảng, Tôn Quyền quyết đoán, Lưu Bị nhẫn nại, Trương Phi hùng dũng, Quan Vũ nghĩa khí, Triệu Vân hiên ngang… Cảnh xưa, người cũ chỉ còn trong mộng, lấy ai mà tỏ nỗi lòng tri âm?

Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung  
Hữu Bằng biên dịch  

Xem thêm:

 

 

 

Exit mobile version