Đại Kỷ Nguyên

Tinh hoa võ thuật Việt Nam (P.3): Lai lịch phi thường của võ Việt, hoàn toàn khác võ Trung Hoa

Có bài thơ rằng: 

“Sông Đằng một dải dài ghê
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”

(Bạch Đằng Giang Phú – Trương Hán Siêu) 

Lịch sử như dòng sông dài cuốn đi trong lớp sóng của nó bao nhiêu sự tích, chiến công, thành bại của cả một dân tộc. Thế kỷ 21 hiện đại với quá nhiều thú vui và dục vọng, mấy ai còn lưu tâm đến những huy hoàng của quá khứ, những tinh hoa của cổ nhân hay những bài học sâu sắc từ ngàn xưa? 

Việt Nam 4.000 năm văn hiến với nhiều triều đại kiệt xuất thấm đẫm văn hóa Phật Đạo Thần đã đem đến cho dải đất xinh đẹp này biết bao nhiêu kỳ tích và truyền kỳ vẫn còn rọi sáng đến tận hôm nay. Chúng tôi tiến hành loạt bài viết về lịch sử Việt Nam mong muốn đem đến cho quý độc giả một góc nhìn mới về sử Việt, chính là ôn cũ biết mới, ngẫm chuyện xưa nhìn chuyện nay, tự đúc rút cho mình những trải nghiệm riêng. 

Võ thuật Việt Nam đầy ắp tinh hoa của biết bao môn phái, chiêu thức, vũ khí. Loạt bài này sẽ giúp độc giả có thêm một góc nhìn mới về tinh hoa võ thuật dân tộc. 

Xem thêm: Phần 1, Phần 2

Những trang sử Việt suốt 4.000 năm là những gì còn sót lại của một nền văn hóa cổ xưa rất độc đáo. Nói một cách văn vẻ thì nó chính là sự kết hợp giữa thanh gươm và cây bút. Gươm để bảo vệ giang sơn và bút dùng để điểm tô non sông, tạo nên những di sản văn hóa rực rỡ để lại cho hậu thế. Lịch sử đằng đẵng mấy nghìn năm với nhiều lần vong quốc và phục quốc cũng chính là nét độc đáo riêng biệt của hóa Việt Nam.

Nên cũng nói võ thuật là một nét văn hóa chủ yếu của nước Việt, cũng có thể nói dân ta có tinh thần thượng võ cao. Vì thế phong trào luyện tập võ thuật chưa bao giờ ngừng phát triển ở mảnh đất này. Ngày nay rất nhiều bậc phụ huynh cho con em mình theo rèn luyện võ thuật như một cách tăng cường khả năng tự vệ và rèn luyện thân thể. Nhưng nếu chỉ dừng ở việc tự vệ và rèn luyện thân thể thì có thể chúng ta đã vô tình làm giảm đi phần lớn giá trị của võ học dân tộc, một vốn quý mà cha ông ta để lại. Loạt bài viết này chính là để khám phá giá trị thực sự của nền võ học Việt Nam cũng như giúp cho các võ sinh tương lai trân quý và nỗ lực hơn để có thể đạt đến trình độ võ học thượng thừa xứng với lớp cha anh.

Nếu chỉ dừng ở việc tự vệ và rèn luyện thân thể thì có thể chúng ta đã vô tình làm giảm đi phần lớn giá trị của võ học dân tộc, một vốn quý mà cha ông ta để lại. (Ảnh: vothuat.vn)

Võ thật, võ công và võ đạo

Bản thân ngành võ có rất nhiều khái niệm dễ làm người ta nhầm lẫn. Do thời gian lưu truyền quá lâu mà nhiều điều chân chính đến nay bị mai một hay bị hiểu lầm. Do đó việc đầu tiên khi lần lại giá trị của võ thuật chính là bắt đầu từ các khái niệm.

Nói đến Võ thuật, người ta thường liên tưởng đến các kỹ thuật chiến đấu bằng tay không hay binh khí dùng để đánh bại đối thủ trong các cuộc giao tranh. Nhưng điều này lại có phần… sai lệch so với từ gốc tiếng Hán của chữ Võ. Chữ Võ tiếng Hán (武) được cấu thành từ chữ Chỉ (止) và chữ Qua (戈). Chữ Chỉ (止) ở đây nghĩa là đình chỉ, làm cho dừng lại. Qua (戈) là tên gọi cho một món võ khí thời cổ (cùng thời với Qua còn có món võ khí khác phổ biến có tên gọi là Can, nên mới có câu: mắc nạn can qua). 

Như vậy, ý nghĩa của chữ “Võ” là: Người biết tự chế lấy bản thân, hoặc góp phần làm cho dừng lại nạn can qua (戈), thì mới đúng nghĩa là người có… Võ (武). Mà để tự chế phục được bản thân thì người học võ phải tu tâm dưỡng tính, tôn trọng đạo đức. Nên khi luyện võ chính là phải tu dưỡng bản thân theo chuẩn mực văn hóa và đạo đức cao thì mới đúng với ý nghĩa của chữ này.

Võ thuật

Chữ “Thuật” ở đây chính là chỉ phương pháp sử dụng võ với một phương pháp nào đó, một loại vũ khí nào đó cho một mục đích cụ thể. Ở nghĩa này, võ thuật đồng nghĩa với võ nghệ, tức là một môn học để hành nghề, nghề võ như binh lính hay võ quan ngày xưa.

Chữ “Thuật” này nhấn mạnh vào phương pháp, cách sử dụng, cách học. Có thể coi là tầng thấp nhất, cơ bản và phổ biến nhất trong cách hiểu về võ của mọi người ở xã hội hiện nay. Ví dụ như: Kiếm thuật là cách dùng kiếm trong võ thuật, Thương thuật là cách dùng Thương, Tiễn thuật hay Cung Tiễn Thuật là cách dùng cung tên, Kỵ Xạ thuật là cách cưỡi ngựa bắn cung, Quyền thuật là cách chiến đấu bằng tay không.

Biểu diễn kiếm thuật trong võ thuật. (Ảnh: tv247.vn)

Võ công

Võ công còn gọi là công phu (Kung Fu) trong tiếng Hán Việt. Đây là khái niệm cao hơn võ thuật, nói chính xác đây là khởi đầu của người luyện Võ chân chính. Nó là thuật ngữ dành cho người luyện võ vì võ chứ không phải để làm việc. Vậy “Võ công” chính là khái niệm chỉ phương pháp rèn luyện chuyên nghiệp và chính thống căn bản nhất để người luyện võ có thể đạt đến trình độ thượng thừa sau này. Trong đó có thể gồm các bài quyền bí truyền và phương pháp hô hấp nội ngoại công phu đòi hỏi sự rèn luyện kiên nhẫn cao độ và trải qua nhiều thời gian (công phu).

Ngoài ra Võ công còn có một nghĩa phụ nữa là chỉ những chiến công hiển hách của một vị tướng hay một vị vua nào đó. Ví dụ như vua Quang Trung đã lập nên “võ công” hiển hách đánh đuổi quân Mãn Thanh năm 1789. Có một câu nói lưu truyền như sau có thể khiến chúng ta hiểu thêm về khái niệm và sự quan trọng của võ công:

Lực bất đả quyền
Quyền bất đả công
Luyện quyền bất luyện công
Đáo lão nhất trường không
Luyện công bất luyện quyền
Hậu thế thất nhân truyền

Tạm dịch:

Sức không đánh lại quyền (người mạnh không đánh được người biết quyền thuật)
Quyền không đánh lại công (người biết quyền thuật không đánh nổi người có nội công)
Luyện quyền mà không luyện công (chỉ tập quyền mà không có nội công)
Về già chỉ tay không (về già không còn gì, ý là cơ thể sẽ suy sụp sinh ra nhiều bệnh tật)
Luyện công không luyện quyền (chỉ tập nội công, không tập quyền)
Về già chẳng có ai để truyền (khó tìm truyền nhân, vì người đời không hứng thú luyện công)

Võ công chính là khái niệm chỉ phương pháp rèn luyện chuyên nghiệp gồm các bài quyền bí truyền và phương pháp hô hấp nội ngoại công phu đòi hỏi sự rèn luyện kiên nhẫn cao độ và trải qua nhiều thời gian (công phu). (Ảnh: danviet.vn)

Võ đạo

Là trình độ tối cao của người luyện võ, là thứ trong mơ của tất cả võ nhân hay võ sĩ. Đây mới chính là thứ duy nhất mà một người luyện võ nên đặt làm mục tiêu của đời mình. Ở đây võ học trở thành một phương tiện để thăng hoa bản chất con người, vượt khỏi giới hạn của thể xác và không gian này. Việc tập võ chính là hành đạo vậy, vì võ đạo chân chính không phải dùng để phân định hơn thua và tài năng cao thấp. Tuy nhiên học võ thế nào để đạt được võ đạo luôn là dấu hỏi lớn nghìn năm qua. Phần sau sẽ nói rõ hơn về vấn đề này.

Võ Việt chính là văn hóa Thần truyền

Ngày nay, ảnh hưởng của các loại tiểu thuyết võ hiệp và những bộ phim võ thuật hoành tráng đông đảo từ Trung Quốc cho đến Mỹ, Thái, Nhật, Hàn khiến hàng triệu thanh thiếu niên vì hâm mộ mà dấn thân đi học võ. Và trong cái trào lưu sôi động đó thì việc khoác lên người bộ đồ võ Wushu, Karatedo, Aikido có vẻ hào nhoáng hơn và thu hút các thanh niên Việt nhiều hơn là những gì còn truyền lại của ông cha.

Lướt một vòng qua các trung tâm văn hóa thì các lớp võ nước ngoài luôn đông nghìn nghịt, chẳng bù với các lớp võ cổ truyền. Buồn hơn nữa là ngay trong các lớp võ cổ truyền người ta lại còn đang dạy võ Việt Nam theo kiểu ngoại lai. Bỏ qua hết các giá trị võ đạo của cha ông, chạy theo kiểu võ nghệ đấu đài thực dụng với cơ bắp cuồn cuộn mang nặng tính biểu diễn. Học võ Việt mà đánh theo kiểu Muay Thái, kiểu Wushu và kiểu đấu đài Boxing?! Đâu rồi hồn võ dân tộc, đâu rồi tinh thần thượng võ ông cha ngày xưa?

Vậy có thực là võ học của Nhật, Hàn, Trung Quốc tốt hơn và có giá trị hơn Võ Việt Nam khi chúng có thể được truyền bá rộng khắp thế giới?

Người viết xin mạn phép không đề cập đến một số nền võ thuật khá nổi tiếng khác như Mỹ, Nga, Do Thái… vốn có rất nhiều cao thủ, mà chỉ đề cập đến nền võ học của 4 nước Trung, Nhật, Hàn và Việt (trong đó sẽ tập trung vào Trung và Việt). Lý do chính đầu tiên là vì khuôn khổ bài viết này không phải phân định đâu là nền võ thuật tốt hơn mà chỉ đơn thuần phân tích khía cạnh văn hóa và nội hàm của võ học truyền thống nước Việt.

Lý do thứ hai là 4 nước này chính là 4 nước đồng văn, cùng trong nền văn hóa chữ Hán cổ trải dài liên tục mấy nghìn năm, vốn được xem là văn minh Thần truyền cho con người. Chỉ có các nền văn minh này mới có thể sản sinh ra nền võ học thực sự có thể đạt đến đỉnh cao nhất là Võ đạo. Hay nói một cách chân thực thì chỉ có nền võ học của 4 quốc gia này cùng với Ấn Độ (với môn phái KalariPayatu và một số môn võ thuật xuất thân từ Yoga cổ) với nội hàm thâm sâu và văn hóa nghìn năm mới có đủ tư cách để bàn về Võ đạo chân chính mà thôi.

Giờ đây chạy theo kiểu võ nghệ đấu đài thực dụng với cơ bắp cuồn cuộn mang nặng tính biểu diễn. (Ảnh: baomoi.com)

Lịch sử truyền thừa nhiều nghìn năm

Đầu tiên là nói về lịch sử, võ học Việt Nam sớm nhất được nói đến trong sử sách chính là trong huyền thoại từ thời mở nước. Chẳng phải Lạc Long Quân đã giúp dân chém Hồ Tinh, trừ Mộc Tinh Ngư Tinh là gì? Những công trạng của ông chính là dùng võ công mà thực hiện, là ghi nhận sớm nhất trong huyền sử về võ học của nước ta. Sau Lạc Long Quân đến truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa sắt cầm roi sắt ra trận, tất cả đều ghi dấu võ công của người Việt.

Nếu tính về thời gian thì cội nguồn võ Việt cũng xa xưa ngang với nước lâu đời nhất là Trung Quốc hay Ấn Độ. Trải qua hơn 4000 năm rèn giũa, chắt lọc qua vô vàn cuộc chiến chúng ta mới còn lại những giá trị di sản võ Việt đến ngày nay. Thế nên người Việt hoàn toàn không có gì phải tự ti về lịch sử và giá trị của võ học của dân tộc mình vậy. 

Có thể nói võ Việt Nam và Trung Quốc là  2 nền võ học khác ngoài Ấn Độ có lịch sử và nội hàm lâu dài nhất và cũng bị hiểu lầm nhiều nhất. Chỉ có võ công Việt Nam là đủ sức so kè suốt nghìn năm qua hàng nghìn cuộc giao tranh mà vẫn cân bằng với “đại gia võ học” như Trung Quốc, lại vẫn còn tồn tại nguyên vẹn đến hôm nay mà thôi.

Xét về khía cạnh lịch sử và nội hàm thì võ học Nhật Bản và Hàn Quốc đành phải xếp dưới một bậc vì văn hóa Nhật (gồm cả võ học) chỉ phát triển mạnh từ sau khi giao thương với nhà Đường. Văn hóa Hàn Quốc (đặc biệt võ học) chịu ảnh hưởng của nhà Đường và sau đó là Đại Việt. Đặc biệt với sự thành lập Hoa Sơn Lý Gia, võ phái của Hoa Sơn tướng quân Lý Long Tường (Hwasan Sanggun) mà nền võ học Hàn Quốc mới phát triển vượt bật từ sau thế kỷ 12. Chỉ là Nhật và Hàn đã rất thành công với nhiều nhân tài trong thế kỷ 20 để phổ biến văn hóa võ thuật của họ đi khắp thế giới trong khi chúng ta không thể làm như vậy do nhiều nguyên nhân khác nhau. 

Tượng đài Thánh Gióng tọa lạc trên đỉnh núi Ðá Chồng, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. . (Ảnh: vi.wikipedia.org)

Nội hàm thâm sâu từ văn hóa tiền sử

Xét về nội hàm, cả 4 nước đồng văn đều bị ảnh hưởng chung của một nền văn hóa cổ Thần truyền. Trong đó, ngoài Việt Nam ra thì Hàn Quốc và Nhật Bản hoàn toàn là học từ văn minh của Trung Quốc mà phát triển thành của riêng mình. Trong khi Việt Nam và Trung Quốc may mắn được kế thừa nguyên vẹn nền văn hóa cổ xưa đó rồi cải biến hấp thụ, biến thành của mình.

Vậy nền văn minh này là gì? Nó vẫn chưa có tên chính thức nhưng nó chính là tổ tông của văn minh Đông Bắc Á, Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á. Ngay cả văn minh Trung Hoa cũng chỉ là kế thừa và phát triển nền văn hóa này rực rỡ nhất mà thôi. Nền văn minh này đã từng rực rỡ nhiều nghìn năm trước khi bị nhấn chìm bởi Đại Hồng Thủy. Chỉ còn một ít hậu nhân sống sót ở các vùng núi cao như Thiên Sơn, Himalaya, Nepal, Thanh Hóa – Nghệ An, Lào Cai… với những vốn văn hóa quý giá còn lưu lại mà tạo nên các nền văn minh châu Á sau này. Điều này cũng tương tự với Ai Cập, Peru, Mexico, các quốc gia này chỉ là kẻ thừa hưởng lại những gì còn lưu lại của những nền văn minh cổ xưa từng hiện diện trên lãnh thổ của họ mà thôi.

Có thể tạm gọi nó là nền văn minh tiền sử, là chủ nhân mà đã tạo ra Kinh Dịch, Bát Quái, Âm Dương, Ngũ Hành, Hà Đồ Lạc Thư. Các nền văn minh này tuy chưa chính thức được thừa nhận bởi tất cả các quốc gia và giới học thuật trên thế giới nhưng có rất nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ hiện đại đã viết về vấn đề này, đều nhận được rất nhiều tán thưởng từ giới học thuật. Có thể kể đến những cái tên như: “Địa đàng phương Đông” (Stephen Oppenheimer), “Bức thông điệp bi thảm của cổ nhân” (Ernst Muldasev) hoặc series sách Best Seller trên Amazon có tựa là :Fingerprints of the Gods” của tác giả Graham Hancock viết năm 1995 về các nền văn minh tiền sử.

Ngày nay rất nhiều học giả người Việt cứ mãi tranh luận xem văn hóa nước ta và văn hóa Trung Hoa cái nào có trước và thậm chí tranh cãi xem Kinh Dịch là của Việt Nam hay của Trung Hoa? Điều này thật sự đã sai ngay từ cách đặt vấn đề vì cả Việt Nam và Trung Quốc cũng chỉ là hai người học trò của nền văn minh đã mất kia mà thôi.

Cả hai nước với vốn văn hóa đó đã tạo nên hai vương quốc vĩ đại truyền thừa suốt 3.000 năm là Văn Lang (Việt Nam) với 18 thời Vua Hùng kéo dài 2.700 năm và Trung Quốc với thời Tam Hoàng Ngũ Đế kéo dài suốt 3 nghìn năm. Trung Hoa với lợi thế về lãnh thổ nên có vẻ phát triển nhanh và xuất sắc hơn rồi cuối cùng ảnh hưởng đến toàn bộ các nước còn lại, kể cả Việt Nam bởi vì sau thời Hùng Vương thì người Việt hầu như đã đánh mất rất nhiều thứ quý giá của ông cha và phải chịu đô hộ gần 1000 năm. Tuy nhiên với nội hàm văn hóa sâu dày cộng với việc cùng chung một gốc rễ tương đồng nhau mà văn minh Trung Hoa không thể đồng hóa thành công người Việt như cái cách nó đã làm trước đây với các dân tộc du mục khác.

Xét riêng về võ học sẽ thấy rõ hơn điều đó. Nói chung võ Việt Nam nhìn thoáng qua thì thấy có rất nhiều phần giống võ Trung Quốc, kể cả tên gọi và vũ khí nhưng đi sâu nghiên cứu thì khác biệt là rất lớn. Võ Việt có nhiều nét rất đặc sắc như “lấy ít địch nhiều”, “chú trọng hiệu quả không trọng hình thức” và “chỉ có thể dùng tốt nhất bởi người Việt”.

Nhìn thoáng qua võ thuật Việt gần giống với võ Trung Quốc nhưng đi sâu nghiên cứu thì sự khác biệt rất lớn. (Ảnh: soha.vn )

Các thể loại vũ khí, hệ phái:

Nói đến võ là phải nói đến vũ khí, người ta hay nói về “Thập bát ban võ nghệ” hay 18 loại vũ khí mà con nhà võ phải tinh thông. Trong danh sách của 18 loại này của người Việt có 2 loại hoàn toàn khác Trung Quốc là “Song Chùy” và “Ná Trận”. Trong khi đó người Trung Quốc dùng Độc Chùy và Cung Nỏ thay cho “Ná Trận”. Ngoài ra còn một số binh khí đặc thù Việt Nam khác như “bút chì” chuyên dùng cho các binh lính đoạn hậu khi phải rút lui chỉ duy nhất có ở Việt Nam. Và còn có “Roi” Bình Định hoàn toàn khác với trường côn của Trung Quốc với lối đánh cực hiểm và phù hợp thể chất của người Việt. 

Kế đến là hệ phái võ thuật, hẳn ai thích phim kiếm hiệp đều biết đến các môn phái nổi tiếng của Trung Quốc là Thiếu Lâm, Võ Đang, Không Động, Hoa Sơn, Thanh Thành, hay như Cổ Triều Tiên có TaeKyon, Nhật thời cổ có JuJitsu, KenJutsu, Ninjitsu (Nhu Thuật, Kiếm Thuật, Nhẫn Thuật) và các hệ phái của nó.

Việt Nam vốn dĩ ở sát sườn Đại môn phái kia, muốn yên ổn suốt 4 nghìn năm thì lẽ nào lại không chú trọng phát triển mặt này? Người Trung Quốc phân chia võ công của mình thành 2 loại lớn là “Tướng môn võ thuật (võ công của các gia đình võ tướng) và “Tông môn võ thuật” (võ công dân gian, các môn phái dân gian và một số môn xuất thân từ tôn giáo).

Võ thuật Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có thể dùng cách phân loại này để dễ nhận thức hơn. Theo đó thì Tông môn võ thuật của Nhật và Hàn có thể kể đến như TaeKyon (tiền thân Taekwondo), Gumdo (Gươm Đạo), Karate và các hệ phái, JuJitsu (Nhu thuật), Nippon Kempo hay đặc biệt như NinJitsu (Nhẫn thuật), còn có 9 đại môn phái truyền mấy trăm năm đến nay. Tướng môn võ thuật có thể kể đến Hoa Sơn Lý Gia của Hàn Quốc, các hệ phái Kenjitsu (kiếm thuật) của các gia đình Samurai như Shintoryu (Thần Đạo Lưu) lây đời nhất có từ thế kỷ 13. 

Võ Bình Định hoàn toàn khác với trường côn của Trung Quốc (Ảnh: hiquynhon.com)

Còn ở Việt Nam, sự phân loại phức tạp hơn các nước khác. Theo nguồn của Bình Định Sa Long Cương (võ phái cổ truyền lớn và uy tín hàng đầu Việt Nam)  thì võ học Việt Nam từ xưa đến nay chỉ có thể tạm chia thành 5 đại hệ phái, cũng chính là 5 cây đại thụ chống đỡ xâm lăng suốt nghìn năm qua của dân tộc, là nền tảng cho bản lãnh kinh người của các tướng lãnh và đào tạo ra hàng triệu võ binh tinh nhuệ đánh bại tất cả kẻ thù. Các hệ phái đó gồm có:

Võ Lâm: Hệ phái võ thuật của miền rừng núi, của dân giang hồ, cổ xưa, thực dụng, hiệu quả. Chỉ truyền hạn chế chứ không phổ biến. Có thể liệt vào hạng Tông môn bí truyền. Môn võ này thoát thai từ nhu cầu sinh tồn chống chọi với thiên nhiên nên sức tàn phá của nó khủng khiếp, vì lẽ đó nên ít được phổ truyền.

Võ Kinh: Hệ phái võ thuật chính thống của quốc gia được giảng dạy cho binh lính tại Kinh đô. Chính quy, chuẩn mực, thích hợp cho binh lính, cũng có thể coi như Tướng môn võ phái. 

Võ Cổ Truyền: Chú trọng vào các loại võ trận (võ dùng trong chiến trận), có thể xếp vào Tướng môn võ thuật phái. Nay chỉ còn một số hệ phái còn sót lại như Thăng Long Võ Đạo, Nam Huỳnh Đạo, võ xứ Tây Sơn Bình Định… Cũng nói thêm là do đặc trưng chiến tranh liên miên và đất nước nhỏ nên Tông môn võ phái ở Việt Nam không mạnh bằng Tướng môn võ phái qua các thời kỳ lịch sử. Một số Tông môn võ phái của Việt Nam đã chuyển thành tướng môn võ phái khi chưởng môn của họ trở thành tướng quân hay vua, ví dụ như nhà Trần và Nhà Lý. 

Võ Phật Gia Quyền: Hệ phái võ thuật của các Thiền sư, xuất xứ từ các thiền sư Ấn Độ truyền Pháp từ thời Bắc thuộc, được khai thác chính quy từ thời Lý, đặc biệt nổi tiếng vào thời Trần. Cách tu luyện hoàn toàn khác với Đạo gia võ công. Ngoài ra Hoàng tử Lý Long Tường còn đem hệ phái này phát dương quang đại ở Cao Ly. Nền võ học cổ của Hàn Quốc ảnh hưởng rất lớn từ võ công của Đại Việt chính là lý do này. Gumdo của Hàn Quốc là một chi phái dùng Gươm (kiếm) mà võ công Đại Việt đã đem đến Cao Ly vậy.

Võ Thiếu Lâm: Hệ phái võ thuật của Chùa Thiếu Lâm, du nhập vào nước ta dưới Thời Nhà Tống (960 – 1279) và Nhà Minh (1368 – 1644). Khi các triều đại này sụp đổ, nhiều cao thủ đã mang theo tuyệt học môn phái tránh nạn xuống phương Nam.

Nên thực chất võ Việt Nam truyền thống còn bảo lưu rất nhiều vốn quý của võ Trung Hoa và qua thời gian đã được Việt hóa dung hòa vào nền võ học của dân tộc. Còn có cả các cao thủ Đạo Gia như Võ Đang, Không Động tị nạn tại Việt Nam cũng góp rất nhiều vào di sản này.

Việt Nam truyền thống còn bảo lưu rất nhiều vốn quý của võ Trung Hoa và qua thời gian đã được Việt hóa dung hòa vào nền võ học của dân tộc. (Ảnh: evt.vn)

Văn thơ và quyền pháp

Vốn là các quốc gia văn minh cao và để môn sinh dễ tiếp thu nên khi huấn luyện võ thì các bài quyền của võ Việt và Trung đều dùng thơ để dạy môn sinh, thường được gọi là “Thiệu” và “Thảo” (võ Trung Quốc gọi các lời thiệu này là Ca Quyết). Nó cũng chứng minh rằng võ chính là thoát thai từ văn minh mà thành.

Cách làm này là độc đáo duy nhất trên thế giới chỉ có thể tìm thấy ở Võ Việt Nam và Trung Quốc. Lời Thiệu được viết rất ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc. Nội dung của lời thiệu bao gồm tên các chiêu thức xếp theo thứ tự bài, các yếu lĩnh để luyện tập và biểu diễn đúng tinh thần của bài.

Trong thực tế người ta dễ dàng bắt gặp sự đa dạng của lời Thiệu ngay cả cho một bài sáo lộ cụ thể: Khi thì chỉ ra từng động tác rất chi tiết như trong lời thiệu của Diệp Chuẩn, khi thì chỉ khái quát thành từng cụm chiêu thức, các thế chiến đấu mà một thế bao gồm nhiều động tác, hoặc các phân đoạn của bài như lời Thiệu của Diệp Vấn, Lương Quang Mãn trong võ phái Vịnh Xuân Quyền Trung Hoa… Sự đa dạng này không chỉ bởi các bài đã ít nhiều bị thất truyền, sai lạc hoặc được bổ sung, sửa đổi qua thời gian, mà còn có thể do dụng ý của từng võ sư khác nhau.

Bài Thiệu của Trung Hoa thông thường dùng thơ thất ngôn, trong đó 4 chữ đầu là tên chính xác của chiêu thức, 3 chữ còn lại là bí quyết sử dụng chiêu đó sao cho hiệu quả nhất. Tuy nhiên khi truyền ra thì các võ sư Tàu chỉ truyền 4 chữ cho đồ đệ thông thường và dấu đi 3 chữ chỉ truyền riêng cho ái đồ hay con cái mà thôi. Đây cũng là lý do phổ biến mà võ Trung Hoa càng truyền càng mất đi bản sắc vốn có, càng truyền thì càng sai lệch và sa vào hình thức màu mè vì bất kỳ ai cũng có thể tự suy diễn 3 chữ còn lại theo cách của mình. Hơn nữa là có rất nhiều động tác được dùng chung qua lại giữa các bài quyền khiến cho người ta rất khó phân biệt.

Còn bài Thiệu Việt Nam thì rất đa dạng có cả chữ Hán, chữ Việt hay kết hợp cả hai, khi thì dùng ngũ ngôn, khi thì thơ lục bát, khi thì thất ngôn… thể hiện nội hàm và sự đa dạng văn hóa của dân ta. Nhưng cái hại của việc này chính là khi chuyển từ chữ Hán sang dùng chữ Latinh thì chỉ cần vài chữ trong bài Thảo viết sai chính tả thì nghĩa hoàn toàn sai lệch so với nguyên gốc và chiêu thức.

(Còn nữa)

Tĩnh Thủy

Exit mobile version