Đại Kỷ Nguyên

Tam Tự Kinh (chọn lọc): Bài 14 – Phàm dạy trẻ, phải giảng kỹ

Tam Tự Kinh (chọn lọc): Bài 14 - Phàm dạy trẻ, phải giảng kỹ

Ảnh minh họa: Chụp màn hình video Chánh Kiến.

Nhiều người Việt Nam đã thuộc nằm lòng câu nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Đây cũng chính là câu mở đầu của bộ sách giáo dục trẻ em truyền thống “Tam tự kinh”, từng được ngợi ca và sử dụng rộng rãi ở các nước Á Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. “Tam tự kinh” chỉ có trên 1000 chữ nhưng bao trùm cả văn học, lịch sử, triết học, thiên văn, địa lý, luân thường đạo lý. Sách thích hợp với trẻ nhỏ nhờ hình thức thơ 3 chữ ngắn, đơn giản, có thể hát như đồng dao nghe rất vui tai.

Tiếp theo bộ kinh điển giáo dục trẻ em “Phép tắc người con” (Đệ tử quy), Đại Kỷ Nguyên hy vọng rằng bộ sách “Tam tự kinh” này sẽ giúp các em nhỏ và mỗi người chúng ta nuôi dưỡng bản tính thiện lương, tịnh hóa tâm hồn, tìm lại và nâng cao những giá trị truyền thống tốt đẹp trong thời buổi đạo đức suy thoái hôm nay.

Kinh văn

Phàm dạy trẻ, phải giảng kỹ

Tỏ lời huấn, rõ câu cú.

Người đi học, phải khởi đầu

Hết tiểu học, đến Tứ thư.

Diễn giải

Phàm là việc dạy bảo trẻ nhỏ khi mới nhập học, phải đặc biệt chú trọng đến phương pháp dạy học. Thầy giáo phải hiểu cặn kẽ rồi mới lấy hàm ý mỗi chữ mà giảng giải rõ ràng, dạy bọn trẻ khi đọc sách biết được chỗ nào thì ngắt câu là hợp lý (trong sách cổ không có ngắt câu nên gọi là “bạch thư”, để đọc và ngắt đúng thì phải dựa vào các hư từ).   

Người đọc sách và nghiên cứu học vấn trong tương lai ắt phải nghiên cứu kỹ càng cổ thư của Thánh hiền. Cho nên, phải trang bị tốt nền tảng đọc hiểu ngữ văn và văn chương cổ. Với mỗi chữ, cần học tốt hình dạng, phát âm, ý nghĩa của chữ, cho đến cách ngắt câu; mới có thể tiến một bước nghiên cứu cặn kẽ Tứ thư.

Câu chuyện tham khảo: Chữ viết của người Trung Hoa

Văn tự phương khối (viết trong khung vuông) của Trung Quốc là loại chữ viết thú vị, vô cùng hài hoà đẹp mắt. Mỗi chữ là một âm tiết, còn có hình, có âm, có nghĩa. Mỗi nét bút đều ẩn chứa câu chuyện khiến người ta cảm khái, chỉ cần hiểu được nguyên tắc cấu tạo chữ lúc ban sơ của chữ Trung Quốc, thì sẽ hiểu được ngọn nguồn của nó, dù chữ khó thế nào thì nhìn cũng không quên.

Tự hình của mỗi chữ Trung Quốc thông thường phản ánh ra ý nghĩa sớm nhất của chữ đó, cũng chính là “nghĩa gốc” (bản nghĩa), từ nghĩa gốc đem đến các nghĩa liên quan, gọi là “nghĩa rộng/nghĩa bóng”. Chúng ta có thể từ thiên bàng (bộ thủ), cũng chính là từ tự hình của một chữ mà hiểu được ý nghĩa và âm đọc chữ đó. Đại đa số bộ thủ đều là ký hiệu có nghĩa, nghĩa của chữ (tự nghĩa) hơn quá nửa là liên quan; bộ thủ trong chữ giống nhau, thì âm của chữ (tự âm) quá nửa là đọc gần giống nhau. Nhưng do hàm nghĩa văn tự tuỳ theo thời đại mà chuyển dời mà biến hoá, cho nên phải khảo cứu rõ ý nghĩa mỗi câu thoại trong văn chương, mới có thể thật sự hiểu được ý tứ của văn chương.

Ảnh chụp màn hình video Chánh Kiến.

Chúng ta có thể lấy bộ Nhật (日) làm ví dụ. Giáp cốt văn của Nhật (日) giống hình thái của Mặt Trời, nghĩa gốc là “Mặt Trời”. Lấy Nhật (日) làm bộ thủ, đa phần có liên quan đến Mặt Trời. Ví như trong chữ Đán (旦, sáng sớm), chữ Nhất (一) chỉ trên mặt đất. Sáng sớm, Mặt Trời vừa mới từ đường chân trời mọc lên là Đán (旦). Lại ví như trong chữ Thị (是), chữ Chính (正) bên dưới là đi về phía trước một cách không lệch không nghiêng, nghĩa là lộ tuyến chính xác. Chữ Nhật (日) bên trên trong tâm mắt của người xưa là chính (正, đúng), trực (直, thẳng); do đó chữ thị (是) mang nghĩa “đúng đắn, chính xác”. Như thị (是) trong thị phi (是非, đúng sai), nhất vô thị xứ (一無是處, chẳng có cái đúng), thực sự cầu thị  (實事求是, thực sự cầu đúng) đều mang ý nghĩa “đúng đắn, chính xác” này.

Ngoài ra, vì trong cổ thư không có dấu chấm câu, việc đầu tiên khi thầy giáo lên lớp chính là chỉ dẫn trẻ làm thế nào để ngắt câu, khiến chúng hiểu được bao nhiêu chữ là một câu, bao nhiêu chữ thì nên dừng lại. Tiếp theo, mới có thể đi sâu vào việc dạy và học.

Dấu chấm câu là một bộ phận trong văn chương, khi vận dụng thích hợp thoả đáng có thể biểu đạt minh xác ý nghĩa câu văn. Một câu thoại nếu di chuyển dấu chấm câu, ý nghĩa sẽ sai biệt rất lớn. Có một câu chuyện như sau:  

Trước đây có một người xuất ngoại viễn du, vì trời mưa nên trú nhờ nhà một người bạn. Trú mưa được hồi lâu, người chủ hà tiện có chút sốt ruột, nhưng lại ngại ngùng nói ra, bèn viết lên giấy một đoạn như sau: “Trời mưa cả ngày, giữ chân khách ngày qua ngày, ta không muốn giữ” (Hạ vũ thiên/ lưu khách thiên thiên lưu/ ngã bất lưu – 下雨天  留客天天留  我不留), hy vọng người khách có thể biết điều mà nhanh chóng rời đi.

Người khách xem xong, trong tâm hiểu được cách nghĩ của người chủ, nhưng anh ta quyết định trêu chọc bạn mình. Anh bèn lấy bút mực, dưới “lưu khách thiên” (留客天) thêm dấu phẩy, dưới chữ bất (不) thêm dấu chấm hỏi (vì viết chữ Hán viết từ trên xuống dưới, từ phải qua trái), thế là chữ trên tờ giấy trở thành: “Mưa cả ngày, giữ khách cả ngày, Trời có muốn tôi lưu khách? Lưu!” (Hạ vũ thiên, lưu khách thiên, thiên lưu ngã bất, lưu – 下雨天,留客天,天留我不?留!). Vị chủ nhà xem xong vô cùng tức giận nhưng cũng không biết làm sao.

Phụ chú

Nguyên văn chữ Hán

凡訓蒙 須講究 

詳訓詁 明句讀

為學者 必有初 

小學終 至四書。

Âm Hán Việt

Phàm huấn mông, tu giảng cứu 

Tường huấn hỗ, minh cú độc.

Vi học giả, tất hữu sơ 

Tiểu học chung, chí tứ thư.

Pinyin Hán ngữ

Fán xùn méng – xū jiǎng jiù 

Xiáng xùn gǔ – míng jù dòu

Wéi xué zhě – bì yǒu chū 

Xiǎo xué zhōng – zhì sì shū

Chú giải

(1) Huấn: chỉ dẫn.

(2) Mông: Mở mang chỗ u tối, ở đây chỉ việc đọc sách khi mới vào học, tiếp thụ giáo dục để khai mở chỗ mông muội lúc ban đầu cho trẻ nhỏ.

(3) Giảng cứu: đạo lý để giảng giải, tìm tòi. Ở đây chỉ chú trọng phương pháp giáo dục.

(4) Tường: chi tiết, tường tận.

(5) Huấn hỗ: giải thích nghĩa của chữ. Chỉ dạy cách đọc hiểu ý nghĩa các chữ trong điển tịch (sách cổ). Hỗ (詁), bản thân chính là do chữ ngôn (言) và cổ (古) tạo thành, dùng ngôn ngữ nói ra ý nghĩa từ ngữ cổ đại.

(6) Cú độc: dấu chấm. Trong cổ thư (sách cổ) không có dấu ngắt câu nên khi đọc sách đến chỗ câu văn dừng lại, ý của câu hoàn chỉnh gọi là “cú”; không hoàn chỉnh mà tạm ngắt quãng một ít gọi là “độc”.

(7) Vi học: tiến hành việc học. “Vi” là tiến hành. 

(8) Giả: chỉ người cầu học.

(9) Sơ: bắt đầu, nghĩa rộng là cơ sở (nền tảng). 

(10) Tiểu học: cơ sở việc học, chỉ việc học tự hình (Hán tự là chữ tượng hình), tự âm (âm đọc của chữ), tự nghĩa (nghĩa của chữ). Mục đích là hiểu được ngôn ngữ và ngữ pháp của người xưa, học tốt rồi tương lai mới có thể hiểu được các loại văn tự và thư tịch, ở đây chủ yếu nói về thư tịch cổ đại. 

(11) Tứ thư: chỉ “Luận ngữ”, “Mạnh Tử”, “Đại học”, “Trung dung”. Thời Nam Tống, Chu Hy lấy “Đại học”, “Trung dung” trong “Lễ ký” viết thành sách đơn độc; cho nên hai quyển đó cùng với “Luận ngữ” và “Mạnh Tử” làm thành Tứ thư.

Xem phim hoạt hình Tam Tự Kinh – Nguồn gốc câu “Bán bộ Luận Ngữ trị thiên hạ”

Đọc sách bút đàm

“Tam tự kinh” đến bài này mới bắt đầu giảng giải về việc đọc sách, vì sao cần giảng mười mấy bài mới vào chủ đề chính? 

Ban đầu, “Tam tự kinh” nói con người tính vốn thiện, mục đích của học tập là duy hộ bản tính thiện lương của con người. Đọc sách học tập chính là để bản tính không bị hoàn cảnh hậu thiên che đậy; vĩnh viễn lấy tâm thiện lương, lấy chính lý mà sống ở thế gian.

Tiếp theo, “Tam tự kinh” giảng về trách nhiệm dạy dỗ của cha mẹ và bổn phận của con cái trong việc đọc sách và học tập. Bạn sẽ học về quan hệ giữa con người và tự nhiên, nhận biết trời đất ngũ hành, nhận biết quan hệ gia đình và xã hội, bắt đầu từ điều cơ bản nhất là hiếu đễ trong gia đình cho đến tuân thủ nghiêm ngặt ngũ thường Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín ngoài xã hội. Tương lai dù bạn đọc bao nhiêu sách đi chăng nữa, cuối cùng đều là vì hiểu được đạo lý này từ các giác độ khác nhau. Sau khi lớn lên, có thể thiện lương, lý tính xử lý tốt các quan hệ với con người và sự vật, đây mới là điều quan trọng. 

Sau khi hiểu được đạo lý này, mới có thể tiến nhập vào việc đọc sách học tập. Đáng tiếc là, rất nhiều người đã coi việc nắm chắc bao nhiêu loại điển tịch là “vốn liếng” rồi trở nên kiêu ngạo, đã quên mất mục đích ban đầu của việc đọc sách. Họ quên mất việc chiểu theo đạo lý trong sách Thánh hiền để thực hành, để làm người trong cuộc sống. Cho nên biết mà như không biết, không cách nào làm được đến “bác cổ thông kim” (thông xưa hiểu nay), cổ vi kim dụng (xưa làm nay dùng), áp dụng vào thực tiễn. Trong khi đó, lại có nhiều người căn cơ rất tốt, cả đời giữ chắc thiện lương, tuy chưa từng đi học, chưa từng học nhiều, nhưng lại có thể hiểu được rất nhiều đạo lý đối nhân xử thế, một đời rất thành công.

Trong lịch sử có không ít ví dụ như thế. Tể tướng triều Tống của Trung Quốc là Triệu Phổ, cả đời chỉ đọc qua một quyển “Luận ngữ” của Khổng Tử nên bị các quan viên làu thông kinh sử khinh thường. Thế nhưng Triệu Phổ lại có thể sửa trị thiên hạ. Matsushita Konosuke chỉ học hết bậc tiểu học 4 năm, 9 tuổi phải đi học việc để kiếm sống và nuôi gia đình, nhưng cuối cùng trở thành người sáng lập tập đoàn Matsushita, được nước Nhật xưng tán là vị Thánh kinh doanh, thật đáng để chúng ta suy ngẫm. “Tam tự kinh” khuyên bảo con người điều căn bản của học tập, để người ta ghi nhớ không quên, do đó mới được gọi là kinh thư (經書; chữ kinh – 經 có nghĩa thường xuyên, chữ thư – 書 có nghĩa là sách; do đó kinh thư có nghĩa là sách thường đọc).

Theo Chánh Kiến

Mạn Vũ biên dịch

Video: 20 năm đi dạy, giờ tôi mới nhận ra môn học quan trọng nhất cuộc đời

Exit mobile version