Tác giả: Tiết Thi
Tử viết: “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi.” (Sách Luận Ngữ, thiên Vi Chính, chương 15)
(Tạm dịch: Khổng Tử nói: “Học mà không suy nghĩ thì hoang mang, vô ích; suy nghĩ mà không học thì nguy hiểm, mỏi mệt.”)
【Chú thích】
- Võng (罔): Mê muội, hoang mang, sai lầm, vô tri.
- Đãi (殆): Trong Luận Ngữ, chữ “đãi” có hai nghĩa: một là nghi ngờ, như trong câu “đa kiến khuyết đãi” (thấy nhiều điều nghi ngờ thì tạm gác lại); hai là nguy hiểm, như trong câu “kim chi tòng chính giả đãi hĩ” (người làm chính sự ngày nay thật nguy hiểm) và “Trịnh thanh dâm, nịnh nhân đãi” (nhạc nước Trịnh thì dâm dật, kẻ gian nịnh thì nguy hiểm).
【Thảo luận】
Khổng Tử là người đầu tiên bàn luận sâu sắc về việc “học”. Trong toàn bộ sách Luận Ngữ, chữ “học” (學) xuất hiện hơn 60 lần, chữ “tư” (思 – suy nghĩ) xuất hiện hơn 30 lần (so sánh với chữ “tập” (習 – ôn tập, thực hành) chỉ xuất hiện 3 lần). Chương này bàn về mối quan hệ giữa “học” và “tư”.
Khổng Tử có lẽ là người giỏi “học” nhất, nhưng ông cũng từng có những bài học kinh nghiệm. Ví dụ, Khổng Tử nói: “Ta từng cả ngày không ăn, cả đêm không ngủ để suy nghĩ, nhưng chẳng ích gì, không bằng đi học.” (Thiên Vệ Linh Công)
Khổng Tử còn nói: Con người dù có ưa lòng nhân, trí, tín, trực, dũng, cương, nhưng nếu không ham học thì cũng dễ xảy ra vấn đề (Thiên Dương Hóa: “Ưa lòng nhân mà không ham học, cái hại là ngu muội; ưa trí khôn mà không ham học, cái hại là buông thả; ưa chữ tín mà không ham học, cái hại là gây tổn thương; ưa thẳng thắn mà không ham học, cái hại là gay gắt; ưa dũng cảm mà không ham học, cái hại là gây loạn; ưa cương trực mà không ham học, cái hại là ngông cuồng”).
Điều thú vị nhất là trong lần gặp đầu tiên với Tử Lộ, Khổng Tử đã khuyên ông nên học. Tử Lộ nói: “Núi Nam có tre, không cần uốn nắn tự nhiên đã thẳng, chặt xuống làm tên có thể bắn xuyên qua da tê giác. Cứ như vậy thì cần gì phải học?” Khổng Tử nói: “Nếu ở đuôi tên gắn thêm lông vũ, đầu tên mài cho sắc nhọn, chẳng phải mũi tên sẽ bắn được sâu hơn và xa hơn sao?” Tử Lộ bèn lạy hai lạy, kính cẩn nhận lời dạy. (Khổng Tử Gia Ngữ – Quyển 5 – Tử Lộ Sơ Kiến, chương 19)
Trong mắt các nhà Nho, “học” là điều quan trọng hàng đầu của đời người, nhưng quá trình học không thể tách rời khỏi việc suy nghĩ.
Trong Luận Ngữ có rất nhiều chỗ nói về “tư”. Ví dụ, Khổng Tử nói: “Người quân tử có chín điều suy nghĩ (cửu tư): nhìn thì nghĩ đến sự sáng rõ, nghe thì nghĩ đến sự thông tỏ, sắc mặt thì nghĩ đến sự ôn hòa, dáng vẻ thì nghĩ đến sự cung kính, lời nói thì nghĩ đến sự trung thực, công việc thì nghĩ đến sự kính cẩn, điều nghi ngờ thì nghĩ đến việc hỏi han, khi tức giận thì nghĩ đến hoạn nạn có thể xảy ra, thấy lợi thì nghĩ đến điều nghĩa.” (Thiên Quý Thị). Tử Hạ nói: “Học cho rộng mà giữ chí cho vững, hỏi cho tha thiết mà nghĩ đến điều gần gũi, đức Nhân ở trong đó vậy.” (Thiên Tử Trương)
Và sách Lễ Ký – Trung Dung thậm chí còn đề xuất một quy trình “học” hoàn chỉnh (trong đó “hành” (làm) cũng được bao hàm trong “học”, học đi đôi với hành, tri đi đôi với hành): “Bác học chi, thẩm vấn chi, thận tư chi, minh biện chi, đốc hành chi.” (Học cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho rõ ràng, làm cho hết sức.)
Về câu “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi”, Trương Cư Chính đã dựa trên quan điểm của Trình-Chu Lý học để giải thích rằng: “Đạo lý của thiên hạ tuy phân tán trong vạn vật, nhưng lại tựu trung ở tâm ta. Vì nó phân tán trong vạn vật, nên phải dùng công phu trí tri cách vật, tự mình thực hành, sau đó mới thực sự biến nó thành của mình, đó gọi là học. Vì nó tựu trung lại ở trong tâm, nên phải dùng công phu suy ngẫm sâu sắc, nghiên cứu tìm tòi, sau đó mới thấu triệt được sự tinh vi của nó, đó gọi là tư. Hai việc này thiếu một cũng không được. Nếu chỉ biết chuyên tâm vào học mà không suy nghĩ về ý nghĩa của nó, thì đạo lý sẽ không sáng tỏ trong tâm, những gì học được chẳng qua chỉ là dấu vết thô thiển, cuối cùng vẫn mờ mịt mà thôi, nên nói học mà không suy nghĩ thì hoang mang. Nếu chỉ biết suy nghĩ mà không chuyên tâm vào học, thì công phu không đi đến nơi đến chốn, những gì nghĩ ra chẳng qua chỉ là những ý kiến hư ảo do tưởng tượng, cuối cùng sẽ dẫn đến nguy hiểm, mỏi mệt, nên nói suy nghĩ mà không học thì nguy hiểm.”
Ngày nay, chúng ta càng cần phải hiểu chữ “học” theo nghĩa rộng, xem việc thực hành (làm việc) như một hình thức đặc biệt của việc học (học trong làm, làm trong học). Như vậy, câu “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi” càng có ý nghĩa thực tiễn hơn. Ví dụ, trong ngành giáo dục có một kinh nghiệm rằng: Soạn giáo án ba năm chưa chắc đã là một giáo viên giỏi; nhưng nếu viết tự kiểm điểm, phản tư về việc dạy học trong ba năm, thì nhất định sẽ là một giáo viên ưu tú. Trong thế giới phức tạp và cuộc sống vội vã ngày nay, chúng ta lại càng cần phải “học” đi đôi với “tư”.
Tài liệu tham khảo chính
- Luận Ngữ Chú Sớ (bản có dấu câu trong bộ Thập Tam Kinh Chú Sớ, Lý Học Cần chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh)
- Tứ Thư Trực Giải (Trương Cư Chính, Nhà xuất bản Cửu Châu)
- Luận Ngữ Dịch Chú (Dương Bá Tuấn, Trung Hoa Thư Cục)
- Luận Ngữ Kim Chú Kim Dịch (Mao Tử Thủy chú dịch, Nhà xuất bản Hữu nghị Trung Quốc)
- Luận Ngữ Tam Bách Giảng (Phó Bội Vinh, Nhà xuất bản Liên hợp Bắc Kinh)
- Luận Ngữ Dịch Chú (Kim Lương Niên, Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải)
- Luận Ngữ Bản Giải (bản hiệu đính) (Tôn Khâm Thiện, Nhà xuất bản Tam Liên)
- Loạt bài Bàn về Luận Ngữ
Theo Epoch Times
