Tác giả: Tiết Chi
Hữu Tử nói: “Lời hứa gần với điều nghĩa thì mới có thể thực hiện được; sự cung kính gần với Lễ thì mới tránh xa được hổ thẹn, nhục nhã; nhờ cậy người không sai thân thuộc của mình thì cũng có thể lấy làm chỗ dựa được.”
(Luận Ngữ – Học Nhi – 13)
【Chú thích】
- Phục (復): Thực hiện lời nói.
- Viễn (遠): Đọc là “yuàn” (âm Hán Việt: viễn), là một động từ sử dụng theo lối sai khiến, có nghĩa là làm cho nó xa ra, tránh xa.
- Nhân (因): Các sách chú giải trước thời nhà Đường cho rằng “nhân” đồng nghĩa với “nhân” (姻), chỉ bà con họ hàng. Người ngày nay đa số chú giải là nương tựa, dựa vào.
- Tông (宗): Một thuyết cho là “chủ”, có nghĩa là đáng tin cậy. Một thuyết khác cho là tôn kính, kính trọng.
【Thảo luận】
Giáo dục của cửa Khổng nhấn mạnh sự chừng mực, “thái quá cũng như bất cập”. Ví dụ, một chữ “Tín”, trong mấy chương trước đã được nhắc đến nhiều lần: (1) Điều Tăng Tử tự kiểm điểm: “Giao du với bạn bè có thất tín không?”; (2) Lời Khổng Tử nói về việc cai trị nước có nghìn cỗ xe phải “kính cẩn trong công việc và giữ chữ tín”; (3) Học trò phải “cẩn thận mà giữ chữ tín”; (4) Lời Tử Hạ nói: “Giao du với bạn bè, nói lời phải có tín”; (5) Lời Khổng Tử nói người quân tử phải “lấy trung và tín làm đầu”.
Tuy nhiên, trong chương này, Hữu Tử lại đưa ra một giới hạn cho “Tín”: “Lời hứa gần với điều nghĩa thì mới có thể thực hiện được”. Tại sao vậy? “Điều nghĩa không nhất thiết phải giữ lời hứa, giữ lời hứa chưa chắc đã là nghĩa.” Sách “Luận Ngữ chú sớ” đã đưa ra hai ví dụ. Một là trong “Tả truyện – Tương công năm thứ 19” ghi lại, tướng nước Tấn là Sĩ Cái dẫn quân xâm lược nước Tề, khi nghe tin vua Tề qua đời, bèn rút quân về. Sách “Xuân Thu” khen ngợi việc này. Đó là hợp với lẽ phải thì không nhất thiết phải giữ lời hứa (sẽ xâm lược). Một ví dụ khác là trong “Sử Ký” có ghi, Vĩ Sinh hẹn với một cô gái dưới chân cầu, cô gái không đến, nước dâng lên mà chàng vẫn không rời đi, cuối cùng ôm cột cầu mà chết. Đây tuy là giữ chữ tín nhưng lại không phải là điều nghĩa. Vì vậy, Hữu Tử ở đây nhấn mạnh: lời ước hẹn phải phù hợp với điều nghĩa, thì lời nói ra mới có thể thực hiện được.
Trương Cư Chính khi dạy hoàng đế nhỏ đã giải thích câu “Lời hứa gần với điều nghĩa thì mới có thể thực hiện được” như sau: Việc trong thiên hạ, phải cẩn trọng từ lúc ban đầu, sau đó mới có thể có kết quả tốt đẹp về sau. Ví dụ như khi hẹn ước với người khác, vốn dĩ là phải thực hiện lời nói đó, nhưng nếu điều đã nói không hợp với lẽ phải, tương lai sẽ không thể thực hiện được, ắt sẽ dẫn đến việc sai hẹn, thất tín! Cho nên, lúc ban đầu hẹn ước với người khác, phải suy xét kỹ, lời nói ra phải hợp với lẽ trời, gần với điều nghĩa, thì lời nói hôm nay, ngày sau mới có thể thấy được trong hành động, tự nhiên sẽ không đến nỗi thất tín. Vì vậy mới nói là lời nói có thể thực hiện được.
Tương tự, “sự cung kính gần với Lễ thì mới tránh xa được hổ thẹn, nhục nhã”. Ở chương trước, Tử Cống đã nói về đức tính “ôn, lương, cung, kiệm, nhượng” của Phu tử, có thể thấy “Cung” cũng là một phương diện quan trọng trong tu dưỡng. Ở đây, Hữu Tử nhấn mạnh rằng, cung kính với người khác, trước hết phải hợp với Lễ, thì mới có thể tránh xa được sự hổ thẹn. Trong “Luận Ngữ”, Khổng Tử cũng nói: “Cung kính mà không có Lễ thì chỉ mệt nhọc”, và “Lời nói khéo léo, vẻ mặt giả tạo, cung kính quá mức, Tả Khâu Minh lấy làm xấu hổ, ta cũng lấy làm xấu hổ.”
“Nhờ cậy người không sai thân thuộc của mình thì cũng có thể lấy làm chỗ dựa được.” Câu này có nhiều cách hiểu khác nhau. Một cách hiểu là: “nhân” (因) là “thân” (親). “Trong những người mình gần gũi không bỏ sót người thân trong dòng tộc của mình, đó cũng là điều đáng tôn trọng.” Bởi vì bà con bên ngoại rất quan trọng, họ mẹ, họ vợ tuy là ngoại thân nhưng cũng gần giống như nội thân, đều có thể tính vào chín họ (cửu tộc). Vì vậy, Nho gia giảng về “tề gia”, giảng về “thân thân” (yêu thương người thân). Một cách hiểu khác là: “Nương tựa vào những người có quan hệ sâu sắc, đáng tin cậy thì cũng có thể dựa vào được.” Cả hai cách hiểu này đều thông suốt.
Trương Cư Chính lại dạy hoàng đế nhỏ như sau: Nương tựa vào người khác, vốn là để giao hảo lâu dài, nhưng nếu người mình nương tựa không phải là người tốt, thì dù lúc đầu có tạm thời hợp nhau, cuối cùng ắt sẽ chia lìa. Do đó, lúc ban đầu kết giao, phải xem xét lựa chọn cẩn thận, không được bỏ sót người có đạo nghĩa, đáng để gần gũi, như vậy không chỉ nương tựa được nhất thời, mà về sau cũng có thể dựa dẫm được, có thể lấy làm chỗ dựa chính.
Như trên, ba việc được nói đến trong chương này – lời nói, hành vi, và giao tiếp – đều vô cùng quan trọng, đều có quy tắc đạo nghĩa riêng, không thể qua loa đại khái, làm loạn chừng mực; nếu không, “sẽ phải hối hận vì những mất mát do chính mình gây ra không sao kể xiết.”
Tài liệu tham khảo chính
- Luận Ngữ chú sớ (Thập tam kinh chú sớ bản có dấu câu, Lý Học Cần chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh)
- Tứ thư trực giải (Trương Cư Chính, Nhà xuất bản Cửu Châu)
- Luận Ngữ tân giải (Tiền Mục, Nhà xuất bản Tam Liên)
- Luận Ngữ dịch chú (Dương Bá Tuấn, Trung Hoa Thư cục)
- Luận Ngữ tam bách giảng (Phó Bội Vinh, Nhà xuất bản Liên hợp Bắc Kinh)
- Luận Ngữ dịch chú (Kim Lương Niên soạn, Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải)
- Luận Ngữ bản giải (bản sửa đổi) (Tôn Khâm Thiện, Nhà xuất bản Tam Liên)
- Phàn Đăng giảng Luận Ngữ: Học nhi (Phàn Đăng, Nhà xuất bản Liên hợp Bắc Kinh)
- Trọn bộ Bàn về Luận ngữ
Theo Epoch Times
