Đại Kỷ Nguyên

Chuyện cổ Phật gia: Truyền kỳ về tôn giả Ca Chiên Diên, sa môn đệ nhất về biện luận

Tôn giả Ca Chiên Diên là một trong thập đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca, được Phật khen ngợi là vị sa môn đệ nhất về biện luận.

Cách nay 2500 năm, khi Phật Thích Ca Mâu Ni bước ra truyền Pháp, ở Ấn Độ có một tôn giáo cổ xưa là Bà La Môn. Bà La Môn giáo khởi nguồn khoảng 2000 năm trước Công Nguyên, tính đến nay đã có lịch sử trên 4000 năm rồi.

Trong quá trình phát triển, Bà La Môn giáo không ngừng biến đổi, không ngừng hấp thụ các thể hệ tư tưởng khác nhau. Kết quả khảo cổ học cho thấy ban đầu Bà La Môn tôn thờ Phật, nhưng về sau này họ không còn tín Phật nữa, mà thờ cúng những thứ khác. Đến thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên, Bà La Môn giáo đã định hình lại, trở nên hoàn toàn biến dị. Thay vì chân chính tu hành, các tín đồ lại thực hành sát sinh cúng tế để truy cầu hạnh phúc.

Trong những năm Đức Phật truyền Pháp, Bà La Môn giáo liên tục quấy rối và phỉ báng tăng đoàn. Nhưng bên cạnh đó rất nhiều tín đồ Bà La Môn đã vứt bỏ thành kiến tôn giáo để trở thành đệ tử của Phật. Tôn giả Ca Chiên Diên (Katyayana) là một trong những người như thế.

Tôn giả là con trai thứ hai của vị quốc sư nước A Bàn Đề (Avanti) thuộc miền nam Ấn Độ. Ca Chiên Diên vốn chỉ là tên họ, còn tên gọi của ngài là Na La Đà. Nhưng vì sau này danh tiếng của ngài quá lớn nên mọi người gọi ngài bằng tên họ, hoặc tôn kính gọi là Ma Ha Ca Chiên Diên.

Ca Chiên Diên là người con xuất sắc trong gia đình, vô cùng thông minh và tinh thông giáo lý Bà La Môn. Nhưng vì bị anh trai đố kỵ nên ngài quyết định rời xa gia đình, vân du tứ hải.

Những ngày đầu bước ra xã hội, Ca Chiên Diên thường tự hào khoe khoang học vấn và tài năng của mình. Người đời thấy ngài tài hoa uyên bác, lại xuất thân từ dòng dõi cao quý, nên đối đãi với ngài rất cung kính. Cứ như thế, Ca Chiên Diên ngày càng chìm đắm trong danh lợi, thậm chí còn cho rằng mình là bậc trí giả đắc Đạo.

Bài kệ thần bí trên bia đá

Một ngày, ở cánh đồng gần Bà La Nại người ta tìm thấy rất nhiều di tích thành cổ, trong đó có một bài kệ kỳ bí khắc trên bia đá mà không ai có thể hiểu được. Quốc vương nước này phải ban chiếu khắp thiên hạ, rằng hễ ai đọc được bài kệ thì nhà vua sẽ trọng thưởng mỹ nữ và châu báu vàng bạc. Ca Chiên Diên thầm nghĩ: “Ngay cả văn tự trên Trời ta cũng có thể đọc được, thì cớ sao không đọc được tấm bia này?”. Vì vậy ngài rất tự tin đến gặp nhà vua.

Vừa nhìn thấy tấm bia đá, Ca Chiên Diên đã nhận ra đó là văn tự trên Thiên thượng. Ngài dõng dạc phiên dịch cho vua nghe:

Vua của các vua là ai? Bậc Thánh của các Thánh là ai?
Thế nào gọi là kẻ ngu? Thế nào gọi là kẻ trí?
Làm sao rời khỏi dơ bẩn? Làm sao chứng được niết bàn?
Ai chìm đắm trong bể tử sinh? Ai tiêu diêu nơi cõi trời giải thoát?

Khắp thành Ba La Nại không một ai trả lời được các câu hỏi ấy, ngay cả Ca Chiên Diên cũng không giải đáp được. Nhưng vì không muốn bỏ cuộc, ngài xin quốc vương cho thời hạn 7 ngày để tìm ra đáp án.

Ca Chiên Diên hiểu rằng bài kệ kia là lời trên Thiên thượng nên không thể dùng trí tuệ phàm nhân để luận giải. Bởi vậy ngài đã đi thỉnh giáo rất nhiều bậc trí giả Bà La Môn, nhưng những gì họ nói ra vẫn vô cùng nông cạn. Ca Chiên Diên thầm nghĩ: Nếu những bậc thầy lỗi lạc nhất của Bà La Môn không thể trả lời, thì phải chăng chỉ có Đại Giác Giả chân chính mới có thể giải đáp được?

Ca Chiên Diên tìm đến Đức Phật Thích Ca. (Ảnh minh họa: mettapage.org)

Vậy là, ngài quyết định đến bái kiến Đức Phật Thích Ca, Đức Phật giảng rằng:

Vua của các vua là Pháp vương trong vũ trụ tầng thứ 6,
Bậc Thánh của các Thánh là Đại Giác Giả Phật Đà,
Bị ô nhiễm bởi vô minh gọi là kẻ ngu,
Có thể diệt các phiền não gọi là kẻ trí,

Tu luyện trừ tham sân si tức là rời khỏi dơ bẩn,
Có thể hoàn thành Giới Định Huệ thì chứng được niết bàn,
Người chấp trước vào Pháp hữu ngã chìm đắm trong biển tử sinh,
Người chứng được Pháp tính duyên khởi tiêu diêu nơi cõi trời giải thoát.

Lời Phật giảng khiến Ca Chiên Diên bàng hoàng chấn động, đó quả là diệu lý tinh thâm mà ngài chưa từng biết đến. Ca Chiên Diên vô cùng hoan hỷ, đến mức không thể thốt lên một lời cảm kích với Phật Đà. Trong khoảnh khắc, ngài nhận ra đây chính là chân lý mà mình vẫn tìm kiếm bấy lâu. Từ đó ngài quy y Phật Pháp, trở thành đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni.

Thế gian chỉ là cõi vô thường

Một lần, trước mặt tăng đoàn Đức Phật bảo tôn giả Ca Chiên Diên hãy nói lên lĩnh ngộ của mình về Phật Pháp. Ca Chiên Diên đảnh lễ với sư phụ, sau đó nói:

“Thưa các vị đại thiện tri thức, vạn sự vạn vật trên đời có sinh thì có diệt, có thành thì có hoại, có hội tụ thì cũng có chia ly. Các Pháp hữu vi trên thế gian từ sông núi đất đai cho đến vạn tượng vạn vật trong trời đất, hết thảy đều không thoát ly khỏi phép tắc vô thường.

Xuân trăm hoa nở rộ, thu gió thổi lá bay, hoa vàng rơi rụng, lá úa lìa cành. Con người ta thuở thanh xuân thì hồng nhan mỹ lệ, nhưng chỉ sau một vài mùa nóng lạnh, lại trở nên già nua xấu xí, tóc hạc da mồi, cũ kỹ như cái chuông cổ. Con người nếu không thoát khỏi lẽ vô thường, thì sinh mệnh ngắn ngủi và tạm bợ ấy quả thực là cô độc và bi ai. Các vị hãy xem những giọt sương mai đọng trên đóa hoa kia, nó chỉ có thể tồn tại đến khi mặt trời mọc. Rồi mặt trời ấy, đã từng phát ra vô lượng ánh quang minh chiếu sáng thế gian, thì đến lúc vẫn phải chìm lặn vào màn đêm tăm tối.

Con người cũng vậy: Vợ chồng ân ái là thế, đến khi bệnh lão rồi chết đi, họ cũng không thể già thay, chết thay cho ta được. Cháu con hiếu thuận là thế, đến khi cha mẹ nhắm mắt xuôi tay, họ cũng chỉ vây quanh mà khóc lóc, nào có thể đuổi được cái vô thường mà giúp cho mẹ cha sống lại? Vàng bạc châu báu không thể nắm trong tay mãi được, chỉ một trận thiên tai là hủy sạch sành sanh. Danh vọng quyền thế cũng không thể trường tồn mãi mãi, chỉ một cơn binh biến là đổi đại thay triều. Cho nên nói, bất cứ thứ gì nơi thế gian đều không thể bất biến vĩnh hằng.

Chúng ta nếu không minh bạch đạo lý vô thường thì sẽ bị vẻ hào nhoáng của thế gian mê hoặc. Thế giới tự nhiên kia, non xanh nước biếc là thế; Đời người kia, khỏe mạnh tráng niên là thế; Xã hội kia, đèn sáng rượu nồng là thế… Thoạt nhìn cứ ngỡ thế gian là thú vui vô hạn, nhưng thực ra lại là cạm bẫy hại người, bởi vì ở trong đó có lẽ vô thường đang mai phục.

Nếu suy nghĩ kỹ càng, sẽ thấy đâu đâu cũng toàn những thứ hư dối lọc lừa, chỉ có nhân quả và nghiệp lực là không bao giờ hư giả. Nghiệp lực gắn liền với ta như bóng với hình, dù sống hay dù chết, chúng vẫn bám theo ta không rời xa một bước. Do đó, thưa các vị đại thiện tri thức, những người tu hành chúng ta phải dám thách thức với con ma vô thường. Dưới sự từ bi chỉ dẫn của Phật Đà, chúng ta hãy khẩn trương tu tập, nhận thức rõ bản thân, thoát khỏi vòng cương tỏa của thế gian, vượt qua giới hạn của sinh tử mà chứng đắc sinh mệnh vĩnh hằng”.

Bài diễn thuyết của Ca Chiên Diên nghĩa lý rõ ràng, ý tứ sâu xa, đã làm cảm động tất cả các tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di trong tăng đoàn.

Tu luyện được một thời gian, Đức Phật bảo tôn giả Ca Chiên Diên nói lên lĩnh ngộ của mình về Phật Pháp. (Ảnh minh họa: pantip.com)

Vinh diệu nhất là người tu Phật

Một lần, Ca Chiên Diên đi xuyên qua cánh rừng rậm rộng lớn, đến vùng đất phía Tây để truyền Pháp cho quốc vương nước Ma Thâu La, vốn là người tín ngưỡng Bà La Môn giáo. Quốc vương vừa gặp Ca Chiên Diên liền hỏi: “Ông xuất thân từ Bà La Môn, vốn là dòng dõi cao quý nhất, trong khi Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ xuất thân từ dòng họ Sát Đế Lợi, kém hơn Bà La Môn một bậc. Vậy mà ông lại hạ mình làm đệ tử Phật Thích Ca, đó chẳng phải là quá uổng phí hay sao?”.

Ca Chiên Diên đáp: “Thưa đại vương, chẳng những không hề uổng phí, mà trái lại, được làm đệ tử của Phật Thích Ca tôi cảm thấy vinh hạnh vô cùng”.

Thấy quốc vương Ma Thâu La vẫn ngơ ngác không hiểu, Ca Chiên Diên bèn giải thích: “Thưa đại vương, trước kia còn là một Bà La Môn, tôi cũng có cùng cách nhìn nhận như ngài bây giờ. Nhưng từ khi nghe Pháp của Phật Đà, tôi mới biết nhận thức trước kia là sai lầm. Xã hội chúng ta chia thành các giai tầng khác nhau như Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá, Thủ Đà La. Về phân công chức nghiệp thì điều này không có gì phải bàn cãi, nhưng nếu dùng nó để nhận định sự tốt xấu, sang hèn của con người thì lại là sai lầm. Bất kể dòng tộc nào cũng đều có người thiện người ác, kẻ hay kẻ dở. Bà La Môn được cho là cao quý, nhưng vẫn có rất nhiều kẻ sát sinh, tà dâm, tà kiến. Thủ Đà La bị coi là thấp hèn, nhưng vẫn có rất nhiều người hiền lành thiện lương. Con người sang hay hèn đâu phải do dòng tộc cao hay thấp? Chỉ cần họ có thể tu Phật học Phật, giác ngộ Pháp lý, cuối cùng đắc chính quả, thì cho dù xuất thân từ dòng tộc nào họ vẫn là người tôn quý, là người đệ nhất, là người thanh bạch”.

Nghe những lời thuyết Pháp của tôn giả Ca Chiên Diên, vua nước Ma Thâu La như bừng tỉnh. Ông nói: “A, là ta sai rồi! Trong vương quốc của ta, nhà lao chỉ giam giữ người Thủ Đà La, còn người Bà La Môn dẫu tội nặng đến mấy thì cũng được miễn trừ. Thảo nào trật tự xã hội lại trở nên hỗn loạn, dân chúng lại oán thán bất bình”.

Ca Chiên Diên bèn nói tiếp: “Đại vương nên tín phụng Phật Pháp, bởi Phật Đà là Đại Giác Giả, là bậc tôn quý nhất trong cõi người. Cho nên, được làm đệ tử của Ngài thì chính là điều vinh diệu nhất, hạnh phúc nhất của chúng tôi”.

Từ đó quốc vương Ma Thâu La đã tiếp thu Phật Pháp, trở thành một tín đồ của Đức Phật Thích Ca. Ông bắt đầu phế bỏ những điều luật bất công, cho phép mọi giai tầng trong xã hội được đối xử bình đẳng trước pháp luật. Từ đó toàn nước Ma Thâu La an định, mọi người đều cảm kích Phật Pháp.

Ca Chiên Diên hồng dương Phật Pháp cho những người Bà La Môn. (Ảnh minh họa: mettapage.org)

Bà La Môn xưa và nay

Một lần Ca Chiên Diên trở về quê hương nước A Bàn Đề, ở đó có một vị Bà La Môn tên là Lỗ Ê Già, ông ta đối với Ca Chiên Diên vô cùng cung kính tôn trọng. Một hôm, các đệ tử thiếu niên của Lỗ Ê Già lên núi đốn củi, khi đi qua hang đá họ nhìn thấy Ca Chiên Diên đang ngồi thiền định. Họ cười to chế giễu: “Các cậu xem vị tăng nhân đầu trọc này, ông ấy chẳng có gì là ghê gớm đâu”.

Nhóm thiếu niên đứng ngoài hang cười nói ầm ĩ, còn có kẻ tinh nghịch ném đá vào trong hang. Ca Chiên Diên bèn nói với những thiếu niên Bà La Môn rằng: “Này các cậu bé, trước kia những giáo sĩ Bà La Môn luôn nghiêm túc tu luyện, giới cấm ngũ dục. Còn Bà La Môn hiện nay thì sao? Họ lấy vợ sinh con, tham lam vô độ, chẳng khác kẻ thế tục chút nào. Các cậu xem hành vi vừa rồi của mình chẳng phải rất tùy tiện sao? Đây có phải là điều sư phụ dạy bảo các cậu không?”.

Ca Chiên Diên đọc một bài kệ, rằng Bà La Môn cổ đại là:

Tu tập Thắng diệu giới,
Sinh ra Túc mệnh trí
Vui với Chân đế thiền,
Thường ở trong từ bi.

Còn Bà La Môn ngày nay thì:

Làm những chuyện hư giả,
Giữ dòng tộc phóng túng,
Mượn hình Bà La Môn,
Để cầu lợi cúng dường.

Hai bài kệ của Ca Chiên Diên đã cho thấy sự biến dị của Bà La Môn, khiến các thiếu niên kia không dám hé miệng. Họ ôm hận trở về nói với sư phụ rằng Ca Chiên Diên đã mắng chúng ta là bất hảo. Lỗ Ê Già vô cùng tức giận: “Ta đối với Ca Chiên Diên tôn kính là thế, vậy mà ông ta lại làm nhục chúng ta, ta nhất định phải tìm ông ta nói cho ra lẽ”.

Lỗ Ê Già đến trước hang đá, định bụng sẽ cho Ca Chiên Diên một phen bẽ mặt. Nhưng vừa nhìn thấy dáng vẻ trang nghiêm của tôn giả, ông ta bất giác lại chần chừ do dự. Sau, Ca Chiên Diên kể lại cặn kẽ sự tình khiến Lỗ Ê Già tự thấy xấu hổ mà cúi đầu không nói năng gì.

Ca Chiên Diên nói tiếp:

“Người bạn tốt của tôi à, hãy nghe tôi nói: mục đích của chúng ta là giải thoát sinh tử, tìm đến sự vĩnh hằng của sinh mệnh, chứ không phải là để kiếm tiền phát tài.

Hiện nay những giáo sĩ Bà La Môn lấy cớ là cúng tế làm phép cho người ta, nhưng mục đích lại là kinh doanh phát tài, nào có mấy người thực tâm tu luyện? Rất nhiều người đều là vì danh và lợi, bản thân làm ra vẻ tín phụng và thành kính, nhưng thực ra là dùng chiêu bài tôn giáo để thỏa mãn tư dục. Đây là bi kịch lớn nhất của đời người. Những người Bà La Môn ngày nay nếu không phải là cầu phúc báo thì cũng là giải đáp các hiện tượng của vũ trụ, có mấy ai nhận thức được chính mình? Nhưng sư phụ của tôi thì khác, Ngài là vị cứu tinh cho những ai đang loay hoay giữa ngã ba đường. Ông là bạn tốt của tôi, hy vọng ông sẽ xả bỏ những chấp trước vọng tưởng, hãy cùng tôi đến học Phật Đà”.

Giống như Lỗ Ê Già, rất nhiều người từng tín ngưỡng Bà La Môn giáo đều được Ca Chiên Diên dẫn dắt và trở thành đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni.

Từ câu chuyện của tôn giả Ca Chiên Diên có thể thấy con đường ngài thoát khỏi những thành kiến tôn giáo để quy y Phật Pháp quả là không dễ dàng. Nhân gian đúng như ngài đã nói, thế sự vô thường, người tu luyện nhất thiết không nên chìm đắm trong những cái được gọi là vui thú rượu chè, trai đẹp gái xinh, tiền bạc hưởng lạc, tình yêu nam nữ, và những biến ảo gió mây của cuộc đời.

Từ cuộc đối thoại giữa Ca Chiên Diên với Lỗ Ê Già, có thể thấy Bà La Môn giáo cũng từng là giáo pháp tu luyện chân chính. Nhưng vì nhân tâm biến đổi mà tôn giáo cũng trở nên biến dị, cuối cùng, đến thời Phật Thích Ca truyền Pháp thì Bà La Môn đã trở thành tà giáo, can nhiễu nghiêm trọng đối với người tu luyện Phật Pháp. Khi một tôn giáo trở thành thế tục, lấy việc kiếm tiền để thỏa mãn tư dục, chỉ cầu phúc báo chứ không cầu giải thoát, thì tôn giáo đó đã đến thời kỳ mạt Pháp rồi.

Theo Chánh Kiến
Nhất Tâm biên dịch

Exit mobile version