Đại Kỷ Nguyên

Tết miệt vườn

Ảnh minh họa (cắt từ phim "Cô thắm về làng 3").

Không khí bắt đầu từ những gốc mai ấy đấy. Khoảng giữa tháng Chạp là người ta dứt lá cho mai và sau đó, cành nhánh trơ trụi của nó như báo có cái gì trọng đại sắp bắt đầu.

Một gốc mai ở giữa sân, đó là nhu cầu, thói quen và cũng là biểu hiện của văn hoá và may mắn. Ngày thường, mai chỉ là loại cây xanh uốn nắn được, nhưng ngày Tết, ánh vàng và sức nở tưng bừng của nó mới thật bất ngờ. Những nhà có cụ ông nhìn vào rất dễ biết, vì gốc mai của họ được chăm sóc công phu, trông chúng y như những ông chủ điệu nghệ: tỉa gọt đấy nhưng vẫn xù xì một cách phong sương và khí phách.

Nước trong sông rạch đầy dần sau mỗi con triều. Đã qua mùa lụt, phù sa đã nằm sâu ở vị trí mà thiên nhiên đền bù cho con người, nước trong vắt leo lẻo gọi là mùa nước bạc. Thế rồi, cùng với thứ gió se se ngọn dừa, với màu nắng tươi như mật loãng, với tiếng trống lân sập sình chuẩn bị, Tết đã áp sát một bên.

Thật ra, Tết đã đến rục rịch đến từ sau mùa gặt, khi lúa hạt đã vào bồ nhường sân cho những chiếu bánh phồng san sát. Tuần bánh nhộn lên trước lúc đưa ông Táo về trời và kéo dài cho tới ngày giáp cuối. Nếp hạt hoặc khoai mỳ (sắn) sẵn trong nhà, xôi chín lên trong nước cốt dừa rồi đưa vào cối, những chiếc cối của thời giã gạo được giữ lại chuyên cho bánh phồng. Cả xóm thức liên miên cùng với nhịp chày và tiếng nô đùa của cánh chị em đi cán bánh vần công. Đấy là dịp duy nhất họ quây quần bên nhau, náo nức với cái gì đó rất chung nhưng hoàn toàn không giống với việc cấy gặt ngoài đồng. Cánh đàn ông cũng bị dựng dậy thay phiên cầm chày. Trong lúc chờ đến lượt, họ lặng lẽ hút thuốc, thỉnh thoảng chen vào câu chuyện ngồi lê của cánh đàn bà bằng những câu đùa khiến con nít cũng bị lôi cuốn ra khỏi mùng. Thế là chúng biến thành cánh chạy bánh đắc lực từ người cán tới người phơi bánh. Không có loại việc nào lôi kéo được tất cả mọi người như việc làm bánh phồng.

Đã nhìn thấy vết thâm quầng đáng yêu trên mi mắt các bà, các cô, nhưng nào họ đã thôi trò thi đua bánh mứt. Nếu các đức ông coi việc chăm sóc cửa nhà, mai kiểng, lân pháo là nghĩa vụ đối với Tết thì cánh đàn bà ra sức làm sống lại nghề bánh khéo đã từng mai một bởi chiến tranh: Bánh kẹp cuốn ống ngậy hương vị nước cốt dừa này, bánh ga-tô cải biên đúc bằng khuôn mỏng hình trái tim này, bánh thuần nướng trong nồi cát này, bánh bưa kem đường nàỵ… để đề tài bánh trái sẽ đậm đà hương vị thăm hỏi nhau của cánh chị em trong ba ngày Tết, để tiếng khéo đồn xa, để được “Tết thì Tết cả xóm”.

Còn có một loại bánh dân tộc không thể thiếu với người miệt vườn, ấy là bánh tét cải tiến từ bánh chưng thời Nguyễn Huệ thần tốc trên lưng ngựa. Đòn bánh tét là lễ với tổ tiên, là chữ hiếu với cha mẹ, là nghĩa thầy trò, là miếng điểm tâm sáng ngày mồng Một, là quà quê cho con cháu ở xa. Gói bánh tét không dễ vì không phải ai cũng đặt đúng cái nhân đậu mỡ ở giữa và phải niềng sao cho hai đầu cân nhau và các nuộc lạt bóng lên tăm tắp. Qua đòn bánh, người phụ nữ nhà đó được xem xét, không chỉ việc khéo vụng mà còn xem có nền nã, chặt chẽ hay không. Bao giờ ra bánh, người ta cũng treo thành sào cạnh bồ lúa trông thật ấm áp. Có nhà còn gói thật nhiều bánh, ngâm chúng trong nước sạch để ra Giêng ăn dần.

Ảnh minh họa (nguồn: Buzz Feed).

Vẫn còn thiếu nghiêm trọng nếu như Tết ở miệt vườn chưa có mứt dừa, thứ vật liệu cây nhà lá vườn mênh mông. Dừa được chọn kỹ như thể chọn dâu: dừa cứng, mứt có mùi dầu, khô; dừa ướt, mứt ỉu, ăn thấy chán. Những nhà có thẩm mỹ tinh tế thường chỉ pha vào mứt hai màu, hồng phấn và trắng tinh, trông chúng gợi cảm như thiếu nữ. Chưa đủ, chỉ mỗi thứ mứt dừa thì hộp mứt Tết sẽ nghèo nàn lắm, vì vậy họ còn thi nhau làm mứt bí, mứt me, mứt cà, mứt gừng, mứt khế và cả những thứ tưởng không thể nào thành mứt được như trái khổ qua (mướp đắng). Cầm chúng lên, dù thực khách là gã đàn ông kiêu ngạo, bất cần hay chai sạn cũng phải mềm lòng trước sự kỳ diệu của đôi tay, khối óc và tâm hồn người đàn bà.

Thời gian đã chạy bứt lên khiến con người lao muốn đứt hơi theo nó. Người ra chợ, quả cây ngũ sắc đầy ắp ghe thuyền, tiếng máy đuôi tôm dào dạt bờ sông. Người ở nhà gấp rút đưa tất cả những thứ cần giặt giũ ra sông, tiếng đập chiếu trên mặt nước âm âm nghe thật thúc hồi. Có tiếng réo nhau vào hội, cứ mươi nhà thì hùn nhau vật một con heo sẵn trong chuồng của nhà ai đó, ai không tiền mặt cứ việc đưa thịt về ăn Tết đã, ra năm tìm cách tính sau. Trẻ con bưng bê gì mà xuôi ngược khấp khởi vậy? Thì ra, nhân ngày áp chót, người ta tranh thủ đưa biếu nhau những thứ quả chỉ có ở vườn mình để sau ngày Ba mươi thì không ai động đến cây và trái nữa, chính là để chúng được yên lành hưởng chọn lộc xuân như con người.

Ảnh minh họa (nguồn: Việt Nam Travel).

Bữa cơm chiều Ba mươi thật hệ trọng với từng nhà như khắp mọi nơi trong đất nước. Chỉ khác là tổ tiên luôn được ở trong vườn nhà, vì vậy, trước khi rước ông bà vào mâm cỗ thì nấm mộ phải sạch cỏ, phải khang trang. Bận rộn đến mấy, nghĩa cử này thường không được chậm trễ và khi nén nhang cong trên bàn thờ, con cháu mừng hơn được vàng vì thế là ông bà đang về đấy, đang phù hộ cho con cháu đấy, nhất định năm mới sẽ may nhiều dữ ít.

Công việc của cánh đàn bà nào đã xong. Trong ánh lửa bập bùng từ nồi bánh tét bên góc sân, còn phải quét sân trước sân sau, để ra ngoài mồng thì đố dám động chổi. Còn phải tắm táp cho lũ nhỏ để chúng được ngủ trong mùi vải mới. Trong ý nghĩ trẻ thơ, tối giao thừa được mặc quần áo mới thì năm sau sẽ mau lớn.

Cuối cùng, việc nhà cũng phải chấm hết. Trong mệt mỏi ngọt ngào, các bà các cô mang đèn dầu xuống bờ sông, giấu chúng vào bụi cây để hé ra ánh sáng mập mờ, ấy là bữa tắm chậm rãi nhất, long trọng nhất của họ trong vòng mấy trăm ngàỵ. Họ ngụp sâu trong nước mát, nhẩn nha giữa quá khứ và tương lai, bởi tâm tư họ đang bước đến giao thừa. Họ bước lên, quần áo tóc tai cẩn trọng, trong căn nhà bỗng như mới bừng lên, trên chiếc gối còn thơm mùi xà bông, mùi nắng. Bên cơ thể thơm tho của lũ trẻ, họ thả lưng thư giãn. Có biết bao điều ập đến, biết bao nỗi buồn được tiễn đưa và cũng biết bao mơ ước được gọi dậy, ấy là lúc họ tẩy trần đầu óc và tâm hồn vốn bình dị của họ.

Rồi bước chân thời gian như vừa khởi động và đang tràn sầm sập qua xóm vắng. Người già dậy trước bật hết đèn lên, chốc sau đã nghe mùi bánh phồng toả ra từ bếp lửa. Giao thừa bao giờ cũng phải có phồng trên bàn thờ. Không khí bắt đầu lan tỏa khắp xóm. Trẻ con bật dậy, sà ngay vào trò chơi pháo chuột, như chúng chưa hề chợp mắt, còn các cụ bà thì lần ra sân bái lạy đủ bốn phương tám hướng. Đêm đen sóng sánh, cây trong vườn trầm mặc và con sông như bát ngát hơn. Có cái gì đang dừng lại trong mỗi con người, bịn rịn, ngậm ngùi, rưng rưng. Buổi giao thừa ở quê thường không có mấy chương trình truyền hình, ai nấy tụm vào quanh ông bà mình nghe chuyện xửa chuyện xưa, chờ cho nhang tàn để đưa lộc từ trên bàn thờ xuống, bắt đầu nhấm nháp. 

Ảnh minh họa (nguồn: Đông Tây Y).

Sáng mồng Một, nhà nào cũng dậy muộn, trừ một vài người lớn phải cúng kiến cho ông bà. Trẻ con lăng xăng với bộ quần áo đẹp nhất, nhẩm trong đầu những câu chúc thọ người lớn. Xống áo thanh niên bắt đầu chộn rộn đường quê. Người đứng tuổi ra đường vào buổi xế.

Mồng Hai Tết mới thực sự là ngày của hỉ xả. Thường người ta góp nhau sắm lân, sắm trống từ rất sớm, mỗi xã một đội. Người thủ vai lân phải khoẻ, phải có bước nhảy mang tinh thần thượng võ, còn ông địa thường là cậu bé con sôi nổi, cũng có khi là một bà goá có tính chọc trời khuấy nước. Cả xóm được một ngày vui, một ngày cười, cả lân, cả địa thường được thưởng rượu để bước chân tròng trành hơn.

Ngày mồng Ba đánh thức mọi người dậy sớm như nhau. Sau khi cúng tất niên bằng chú gà giò, người ta săm soi bộ chân nó để xem thời vận và treo nó ở hàng hiên để khoe với hàng xóm. Đây cũng là ngày bọn trẻ đổ ra đường, mang lời chúc của gia đình và bánh trái đến mừng thầy cô. Phong tục cổ truyền ấy đã làm cho ngày cuối cùng của dịp Tết bừng lên một lần nữa, thiêng liêng, nhộn nhịp không kém gì ngày Ba mươi vừa qua.

Hết Tết, xóm ấp rã rượi một cách ngọt ngào như cô dâu sau tuần trăng mật. Đó là sự kỳ diệu mà tổ tiên và thiên nhiên cùng ban tặng để mỗi năm một lần, con người trở lại với giá trị vĩnh hằng của mình: thanh sạch, vị tha, giao hoà và mơ ước.

Dạ Ngân

Bài viết đã được ĐKN biên tập. Độc giả có thể đọc bài gốc tại đây.

Video xem thêm: Phong vị phong tục ngày Tết cổ truyền

Exit mobile version