Tiết sương giáng vừa đến, gió tây vội vã tấu lên khúc vĩ thanh của mùa thu. “Sương giáng” là trung khí của tháng Chín âm lịch, cũng là tiết khí cuối cùng của mùa thu, hàng năm đến vào khoảng ngày 22-24 tháng 10 dương lịch, tiết khí tiếp theo chính là Lập Đông. Trong tiết khí này sẽ xuất hiện sương giá đầu mùa.
Sương giáng đến, năm tháng dần trôi về cuối
Sách «Dật Chu Thư – Thời Huấn» ghi lại vật hậu ba giai đoạn của sương giáng: “Ngày sương giáng, sài lang bắt đầu săn thú; năm ngày sau, cây cỏ vàng úa rụng; năm ngày nữa, côn trùng ẩn nấp.” Khi sương giáng, sài lang săn thú, cây cỏ úa tàn trở về với đất, côn trùng thu mình trong hang, vạn vật cả động vật lẫn thực vật đều chuẩn bị qua đông. Bạch Cư Dị trong bài thơ «Tuế Vãn» (Năm cuối) mô tả cảnh vật lúc này: sương giáng nước về khe, gió rụng cây về núi, năm tháng dần trôi về cuối, vạn vật đều trở về nguồn cội.
«Kinh Thi – Bân Phong – Thất Nguyệt» ngâm: “Tháng Chín sương sa, tháng Mười dọn sân.” Chu Hy giải thích “túc sương” (sương sa) chính là “khí nghiêm mà sương giáng vậy” («Chu Hy Tập Truyện»). Người xưa của dân tộc Trung Hoa, vốn sinh sống ở lưu vực sông Hoàng Hà, có nhịp sống “xuân canh, hạ vân, thu thu, đông tàng” (xuân cày cấy, hạ chăm bón, thu thu hoạch, đông cất giữ) rất rõ ràng. Sau sương giáng sẽ đón một mùa đông tàng trữ lạnh giá, ở khúc quanh chuyển giao thu đông, sắc đỏ mùa thu nhuộm rực rỡ núi đồi, vừa hay ban tặng cho con người bộ sưu tập đẹp nhất trong năm. Nhà viết kịch thời Nguyên, Vương Thực Phủ, có một khúc: “Trời mây biếc, đất hoa vàng, gió tây thổi mạnh, nhạn bắc bay nam. Sớm mai ai nhuộm rừng sương say?… ” chấm phá bức tranh sương giáng, khiến người ta tự cắt lấy nỗi tương tư của riêng mình.
Sương giáng, tế Thu kính trời
Giữa sắc thu đỏ rực rỡ, tiết sương giáng khí trời nghiêm cẩn, vạn vật chờ đông về cất giữ, hơi lạnh cũng âm thầm xâm nhập vào người, mang đến cho con người cảm giác thê lương. «Lễ Ký – Tế Nghĩa» ghi: “Sương móc đã sa, người quân tử dẫm lên, tất có lòng thê lương, chẳng phải vì cái lạnh vậy.” Cái lạnh của sương giáng nhỏ giọt vào lòng người đặc biệt thê lương, bởi vì mùa đông sắp đến, một năm sắp qua! Lúc này, lòng sùng kính đất trời, cảm niệm đấng Tạo hóa của con người cũng đặc biệt sâu sắc. «Lễ Ký – Tế Nghĩa» nói “người quân tử hợp với đạo trời” cử hành lễ Tế Thu, chính là biểu hiện của tấm lòng này.
Câu chuyện cảm động về lòng hiếu thảo trong tiết sương giáng
Tiết sương giáng khiến người ta cảm thấy thê lương không chỉ vì lạnh, mà còn một lý do khác, Trịnh Huyền giải thích: “Cảm thời mà nhớ người thân vậy.” Thời xưa có một câu chuyện cảm động sâu sắc về người con hiếu thảo, xảy ra vào đúng mùa sương giáng.
Thời Chu Tuyên Vương có một người con hiếu thảo nhân hậu tên là Doãn Bá Kỳ, ông là con trai của Thượng khanh nhà Chu, Doãn Cát Phủ. Mẹ của Doãn Bá Kỳ qua đời, cha ông cưới mẹ kế. Người em trai do mẹ kế sinh ra đã gièm pha hãm hại Doãn Bá Kỳ, ban đầu cha ông không tin, nhưng người mẹ kế bao che cho con mình, lại còn cố ý sắp đặt một cái bẫy để hãm hại Doãn Bá Kỳ. Doãn Cát Phủ từ xa bị cảnh tượng giả mạo được thiết kế lừa gạt, trong cơn thịnh nộ đã đuổi Doãn Bá Kỳ ra khỏi nhà.
Người con hiếu thảo Doãn Bá Kỳ tự mình đau buồn vì trong sạch vô tội mà bị đuổi khỏi nhà. Vào tiết sương giáng, ông ở ngoài đồng nội gảy đàn khúc «Lý Sương Thao» (Khúc ca Dẫm lên sương) để tỏ rõ tâm tư và tiết tháo của mình: “Dẫm sương mai hề hái rau lạnh buổi sớm, cha không rõ lòng con hề nghe lời gièm pha, ơn nghĩa đoạn tuyệt chia ly hề nát tan gan phổi, có tội gì với trời cao hề mà gặp phải lỗi này. Đau đớn chết không cùng hề ơn nghĩa có bên thiên lệch, ai nói đoái thương hề biết con bị oan.”
Vào ngày Chu Tuyên Vương đi tuần du, cha ông là Doãn Cát Phủ đi theo tháp tùng, Doãn Bá Kỳ đau lòng đã nhân cơ hội hát lên khúc ca tâm tình của mình. Tuyên Vương nghe được khúc «Lý Sương Thao» của ông, từ đáy lòng thốt lên: “Đây là lời của người con hiếu thảo vậy.” Thế là Doãn Cát Phủ đã từ nơi hoang dã tìm con trai Bá Kỳ trở về, và cuối cùng cũng hiểu rõ nỗi oan của con. Khúc «Lý Sương Thao» của Doãn Bá Kỳ được truyền đến hậu thế, được học giả Thái Ung (Cai Yong) thời Hán ghi lại trong sách «Cầm Thao», trở thành một trong mười hai “thao” (khúc) đại diện cho cổ cầm.
Hơn hai nghìn năm sau, người con hiếu thảo Hoàng Đình Kiên khi nghe «Lý Sương Thao» cũng cảm động sâu sắc, bèn làm ra bài «Thính Lý Sương Thao» (Nghe khúc Lý Sương Thao), cảm thời nhớ người thân, biểu hiện sự quan tâm sâu sắc đến cha mẹ: “…Con đi trong đồng nội hề, không dám có tiếng dẫm chân. Sợ lòng cha mẹ vì con mà lay động, nên mới có nỗi lo dẫm lên sương…” Ông thể hiện nỗi lòng hiếu thảo tinh tế của người con xa quê, đi trên đồng nội, chỉ sợ tiếng bước chân xào xạc khe khẽ khi dẫm lên sương cũng sẽ kinh động đến lòng cha mẹ, khiến họ lo lắng cho người con xa xứ! “Nỗi lo dẫm lên sương” (lý sương chi ưu) của người con hiếu thảo cứ thế được lưu truyền, trở thành một điển cố lịch sử. sương giáng, mùa thương nhớ nhất! Lòng hiếu thảo của người con hiếu thảo truyền khắp đất trời!
Phong tục ẩm thực tiết sương giáng
Những món ngon khiến người ta thèm ăn mỗi khi đến sương giáng, theo truyền thuyết từ xa xưa, đại diện là rượu hoa cúc, cua và hạt dẻ.
Tiết sương giáng gần với Tết Trùng Dương (mùng 9 tháng 9 âm lịch), tục uống rượu hoa cúc đã có từ rất lâu đời. Trung Quốc cổ đại từ thời nhà Hán đã có tục lệ uống rượu hoa cúc vào ngày “Trùng Dương”. Hoa cúc vàng nở rộ từ tiết Hàn Lộ, bền bỉ chịu sương, tiếp tục khoe sắc rực rỡ cuối thu. “Vườn rừng gió tây quét sạch, chỉ có hoa vàng chẳng phụ mùa thu”, hoa cúc nở rất lâu, “vương miện tiên” trong các loài hoa không ai khác chính là hoa cúc. Rượu làm từ hoa cúc tiên được mệnh danh là rượu trường thọ.
Theo sách «Tây Kinh Tạp Ký – Bản Cổ Kim Dật Sử» thời Hán ghi chép: “Khi hoa cúc nở, hái cả thân lá, trộn với gạo nếp để ủ, đến mùng 9 tháng 9 năm sau mới chín, rồi mới uống, nên gọi là rượu hoa cúc.” Hái cánh hoa, thân và lá cúc cùng với gạo nếp, ủ một năm thành rượu hoa cúc, giúp kéo dài tuổi thọ.
Từ tiết Hàn Lộ đã có cua bán ra thị trường, đến sương giáng thì càng thêm béo ngậy, được mệnh danh là “sương ngao” (càng cua sương). Tô Đông Pha (Su Shi) đã tiến cử “càng cua sương của loài cua đá” là trân phẩm trong các loài cua. Món ngon có được nhờ sương giáng ngoài “sương ngao” còn có “sương lật” (hạt dẻ sương). Hạt dẻ chín sau sương giáng vào tháng Chín âm lịch, nên có tên “sương lật”. “Sương lật” nấu thành cơm, là một món ngon của tiết trời. Bài thơ «Dạ Bạc Hoàng Sơn» (夜泊黃山 – Đêm đỗ thuyền ở Hoàng Sơn) của Lý Bạch có hình ảnh về món ăn này, thơ ngâm: “Sớm mai quả là kẻ ẩn dật Thương Châu, mua rượu bưng mâm cơm hạt dẻ sương.” Lục Du (Lu You) thời Tống trong bài «Đối Thực Hí Vịnh» (Vịnh đùa khi ăn) nói “hạt dẻ sương to như nắm tay”, quả nhiên hạt dẻ sương giáng, danh bất hư truyền.
Tiết sương giáng, Đông y khuyên nên ăn vặt bằng hạt dẻ, còn hoa quả thì nên ăn hồng. Tục truyền quả hồng “đa thọ” (nhiều tuổi thọ), quả thực, quả hồng sau khi hái có thể để được lâu hơn nhiều so với các loại quả khác; hơn nữa quả hồng có lợi cho dưỡng sinh. «Bản Thảo Cương Mục» ca ngợi quả hồng: “Các loại hồng ăn vào đều ngon mà có ích cho người.”
Những điểm chính dưỡng sinh tiết sương giáng
«Hoàng Đế Nội Kinh», bộ bảo điển dưỡng sinh của Hoa Hạ, tiết lộ nguyên tắc dưỡng sinh của con người, nhấn mạnh “pháp vu âm dương, hòa vu thuật số” (noi theo âm dương, hòa hợp với phương pháp). Mùa thu “dưỡng âm” chính là noi theo sự biến hóa âm dương của trời đất, mà phương pháp dưỡng sinh phải “hòa vu thuật số”, nói đơn giản là tìm ra thuật dưỡng sinh quan trọng trong quy luật tự nhiên.
1. Nguyên tắc chăm sóc sức khỏe sương giáng: Thuận theo tự nhiên Cuối thu khí trời nghiêm cẩn, hơi lạnh xâm nhập, khí thu làm tổn thương phổi. Bác sĩ Đông y nhắc nhở đạo lý chăm sóc sức khỏe, bên ngoài cơ thể phải thêm áo giữ ấm toàn thân, bên trong cơ thể phải chú trọng nhuận phế (bổ phổi), giữ ấm đường tiêu hóa, để tăng cường khí phòng vệ của cơ thể. Sinh hoạt cuối thu tiếp tục thói quen “ngủ sớm dậy sớm” (đồng bộ với mặt trời mọc) của đầu thu và giữa thu, nhưng người già, người mắc bệnh đường tiêu hóa, cao huyết áp và bệnh tim mạch cần đặc biệt chú ý, buổi sáng ra ngoài vận động nên chậm lại một chút, không nên ra ngoài khi trời còn quá lạnh.
Vận động cũng nên thuận theo quy luật tự nhiên là “thu dưỡng” (thu liễm, nuôi dưỡng), tránh vận động mạnh và quá sức. Bác sĩ Đông y Lâm Quý khuyên nên tập khí công chủ yếu là “điều khí điều thần”, giúp khí cơ trong cơ thể thông suốt từ trên xuống dưới, để tăng cường chức năng của phổi, tránh vận động mạnh đổ mồ hôi đầm đìa, gây thất thoát tân dịch, đi ngược lại đạo dưỡng âm.
2. Ăn uống sương giáng: Nhuận phế, kiện tỳ, dưỡng vị sương giáng khô hanh, các bệnh về đường hô hấp dễ phát tác, vì vậy cần nhuận phế. “Phế chủ bì mao, dữ đại tràng tương biểu lý” (Phổi chủ về da lông, có quan hệ biểu lý với ruột già), vì vậy khi nhuận phế đồng thời phải coi trọng kiện tỳ (bổ lá lách) dưỡng vị (dưỡng dạ dày). Kiện tỳ dưỡng vị cũng là tuyến đầu để tăng cường vệ khí (khí bảo vệ) cho cơ thể. Thực phẩm sống lạnh, cứng, hoặc thực phẩm cay nóng gây khô táo, đều là những điều cấm kỵ trong dưỡng sinh cuối thu.
3. sương giáng nên “bình bổ” dưỡng thân Bổ bằng thuốc không bằng bổ bằng thức ăn, tiết sương giáng nên “bình bổ” (bổ sung một cách ôn hòa, cân bằng). Đông y có chủ trương “xuân thăng bổ, hạ thanh bổ, trưởng hạ đạm bổ, thu bình bổ, đông ôn bổ”. Tiết sương giáng vẫn còn vương lại khí khô của mùa thu, vì vậy vẫn chưa thích hợp để “ôn bổ” (bổ sung bằng thực phẩm có tính ấm, nóng).
Đông y đặc biệt khuyến nghị, kiện tỳ dưỡng vị, dưỡng âm nhuận táo, dùng cháo để làm ấm dạ dày, sinh tân dịch (tạo nước bọt, dịch thể) rất hiệu quả. «Bản Thảo Cương Mục» dẫn lời Trương Lỗi trong «Cháo Ký» nói rằng mỗi sáng sớm thức dậy ăn một bát cháo lớn, “hòa hợp với đường ruột, là thứ tốt nhất trong ăn uống”. «Bản Thảo Cương Mục» liệt kê các loại cháo thường ăn như: cháo rau quỳ, cháo bột bách hợp, cháo rau, cháo hạt thông đều rất thích hợp để “bình bổ” trong tiết sương giáng. Đông y còn khuyên trong canh ngân nhĩ (nấm tuyết) hạt sen, cháo kê có thể cho thêm một ít ý dĩ, xuyên bối, bạch quả, hạnh nhân để kết hợp, có thể nhuận phế hóa đờm, nhuận tràng thông tiện. Ngoài ra còn có canh khoai mỡ, nước ép ngó sen, canh ngó sen, cũng đều là những thức ăn, thức uống tốt để dưỡng phổi nhuận táo; sử dụng mật ong để nhuận phế, tỳ bà (loquat) để hóa đờm, dưỡng âm bổ phổi, gạo nếp để sinh tân ích khí, đều là những lựa chọn tốt để dưỡng âm nhuận phế trong mùa thu khô hanh.
4. Bấm huyệt sương giáng: Chăm sóc sức khỏe đơn giản Vào tiết sương giáng, tự mình xoa bóp các huyệt đạo trên cơ thể có thể chăm sóc sức khỏe. Ví dụ, ấn, day, xoa bóp huyệt Hợp Cốc (nằm giữa ngón cái và ngón trỏ) ở cả hai tay, có thể bảo vệ đường hô hấp và đường tiêu hóa, làm dịu cao huyết áp. Ấn huyệt Nghinh Hương ở hai bên cánh mũi, có hiệu quả đối với các bệnh về mũi do sợ lạnh và dị ứng.
«Lễ Ký – Nguyệt Lệnh» ghi: Tiết sương giáng “sương bắt đầu sa, khí lạnh đều kéo đến”. Tuy nhiên, dù khí lạnh của đất trời đều giáng xuống trong tiết sương giáng, nhưng trời đất cũng lưu lại cho con người nhiều sản vật sương giáng tốt đẹp, để con người thưởng thức vẻ đẹp của tiết khí, tận hưởng niềm vui dưỡng sinh, để sống qua một mùa cuối thu thật tốt, viết nên và vẽ lại những ký ức thương nhớ nhất của riêng mình.
Tác giả: Dung Nãi Gia
Theo Epoch Times
