Trải qua vô vàn kiếp nạn, tượng Phật và Ung Hòa Cung vẫn được bảo tồn hoàn hảo. Truy xét nguyên nhân, những gì trải qua khiến người ta phải suy tư sâu sắc.
Ung Hòa Cung vượt qua kiếp nạn cách mạng văn hóa là có thiên cơ
Ở chính điện Ung Hòa Cung Bắc Kinh có một pho tượng Phật Di Lặc cao lớn. Tượng Phật cao 18 mét, hùng vỹ uy vũ, trang nghiêm Thần thánh, được điêu khắc vào những năm Càn Long đời Thanh.
Phía trước của Ung Hòa Cung, ngôi chùa hoàng gia nổi tiếng ở Bắc Kinh, được xây dựng sớm nhất là phòng thái giám đời Minh. Đến đầu thời nhà Thanh là phòng dùng cho phủ nội vụ, năm Khanh Hy thứ 33, sau khi cải tạo xây dựng được ban cho hoàng tử thứ 4, cũng chính là hoàng đế Ung Chính sau này, dùng làm phủ đễ, lấy tên là “Bối Lặc phủ”.
Năm Khang Hy thứ 48, do hoàng tử thứ 4 tiến phong làm thân vương nên lại xây dựng cải tạo thành Ung thân vương phủ. Phân bố kiến trúc chủ thể của Ung Hòa Cung ngày nay vẫn giữ quy mô Ung thân vương phủ năm xưa. Sau khi Ung Chính kế thừa ngôi vị hoàng đế, đã đổi tên Ung thân vương phủ thành “Ung Hòa Cung” làm hành cung của mình. Nơi đây cũng chính là nơi con trai Ung Chính, hoàng đế Càn Long ra đời.
Năm Càn Long thứ 9 (năm 1744), hoàng đế Càn Long tiếp thu kiến nghị của Phật sống Chương Gia, đã quyết định chính thức sửa Ung Hòa Cung thành chùa Phật giáo của hoàng gia. Ung Hòa Cung vì vậy đã trở thành ngôi chùa có quy cách cao nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Kiến trúc chủ thể của Ung Hòa Cung được bảo tồn hoàn hảo như ban đầu, phân bố theo hướng Bắc Nam trên một đường trục giữa, bố cục của toàn bộ kiến trúc theo thứ tự cao dần. Vạn Phúc Các là tòa đại điện cuối cùng của Ung Hòa Cung, cũng là tòa lầu các cao lớn hoành tráng nhất, bên trong thờ tượng Phật Di Lặc điêu khắc bằng gỗ đàn hương trắng, là báu vật trấn giữ thành Bắc Kinh.
Do vậy Vạn Phúc Các còn có tên là Đại Phật Lâu, cao 25 mét, 3 tầng mái cong, toàn bộ là kết cấu gỗ. Tương truyền, năm đó sau khi tượng Phật Di Lặc hoàn thành, chỉ riêng làm áo khoác cho tượng Phật đã dùng hết 1100 mét lụa vàng.
Tượng Phật Di Lặc ở tư thế đứng, sừng sừng trên bảo tọa Tu Di điêu khắc bằng bạch ngọc. Trong đó, phần đầu tượng Phật lên tận phần giếng trời, tầng cao nhất của lầu các, tuy hình thể khổng lồ nhưng không có chút cảm giác nặng nề vụng về nào.
Tượng Đại Phật đầu đội mũ Phật ngũ diệp kiểu Tạng trang trí rất phức tạp, thần thái ung dung cao quý, khắp thân dát vàng, toàn thân trang sức các chuỗi ngọc châu báu uy nghiêm. Có thể nói là trang nghiêm thù thắng, mà thần thái khuôn mặt càng trang nghiêm hòa mục, hai mắt hơi nhìn xuống, môi ngậm chặt, càng hiển thị từ bi tường hòa vô biên, trong từ bi càng thể hiện ra uy nghiêm.
Hai tay Phật, mỗi tay cầm một nhành sen lớn, trên cành các nụ hoa như sắp nở, trên đỉnh là bông hoa sen nở rộ, nâng một Pháp khí. Hai tay tượng Phật kết ấn, biểu thị Phật Di Lặc tương lai sẽ giáng sinh chốn nhân gian, đại chuyển Pháp Luân, phổ độ chúng sinh, dân gian gọi thủ ấn của Ngài là thế “Phù thiên cái địa” (Nâng trời, che đất).
Ở hậu điện Pháp Luân, có 500 tượng La Hán cao gần 4m, dài gần 3m, làm bằng gỗ đàn hương, sau cách mạng văn hóa tàn phá, nên hiện nay chỉ còn 449 La Hán. Còn có Tượng Thích Ca bằng đồng trong lầu Chiếu Phật, khám thờ làm thẳng từ mặt đất lên trần nhà chiếm hết cả hai tầng, 2 cột gỗ 2 bên khắc 99 con rồng xung quanh hai con rồng lớn.
Đáng chú ý là, ở chính giữa phía trước tượng Phật còn thờ một tượng Phật Như Lai nhỏ. Tượng Đại Phật so với tượng Phật nhỏ ở phía trước, ngầm chỉ rằng Phật Di Lặc tương lai đến cứu độ chúng sinh là vị Đại Phật lớn hơn, cao hơn Phật Như Lai.
Sau khi nổ ra cách mạng văn hóa, Ung Hòa Cung cũng trở thành mục tiêu “Phá tứ cựu”.
Theo lời kể của một lão Lạt Ma trong chùa, năm đó khi tạo tượng Đại Phật Di Lặc, để tượng Phật đứng không đổ, ở hai bên và phía sau tượng Phật có xây dựng các hành lang kiểu đài phẳng cao bằng 2 tầng lầu, chiều rộng hành lang vừa đủ một người đi. Giữa hành lang và tượng Phật có các sợi cáp thép nối, đỡ tượng Phật.
Trong thời kỳ cách mạng văn hóa, có 3 tên hồng vệ binh đến đập tượng Phật. Tên thứ nhất leo lên hành lang, giơ búa lên muốn đập đứt cáp thép, nhưng lại quay ngay vào chân mình. Tên thứ hai cầm lấy búa lại đập, nhưng búa lại đập vào khoảng không, hắn ngã ra sàn, ngất tại chỗ. Tên thứ ba sợ quá không đứng nổi. Nghe nói ba tên này sau này không có tên nào sống sót.
Từ đó về sau, không còn có ai dám động đến tượng Đại Phật nữa, Ung Hòa Cung cứ thế an nhiên an lành được bảo tồn đến nay.
Thời cổ đại Trung Quốc, rất nhiều người đều tín Phật thông hiểu Đạo, thời đó người tu Đạo cũng được tôn kính. Cổ nhân nói, thà quấy động nước ba sông, cũng không quấy rối lòng người tu Đạo, đánh tăng chửi Đạo, ắt có ác báo.
Đặc biệt là thời kỳ “Phá tứ cựu” của cách mạng văn hóa là ác liệt nhất. Vô số người bị chụp lên cái mũ “mê tín” mà bị đả đảo, bị giam cầm, bị hại đến chết. Hơn nữa di họa của nó còn kéo dài đến tận hôm nay, khiến biết bao nhiêu người Trung Quốc nói đến chữ “mê tín” liền “kính nhi viễn chi”.
Luật nhân quả báo ứng xưa nay luôn được lưu truyền trong dân gian vẫn đang hiển hiện rõ trên bản thân “những kẻ tạo phản”. Ba tên hồng vệ binh trong khi mê muội đã gây ra bi kịch, cũng là một lần nữa nhắc nhở mọi người đạo lý “thà tin là có”.
Hãy suy nghĩ kỹ xem, nếu có một người tin có Thần tồn tại, kính Thần hướng thiện, sẽ không có bất kỳ tổn thất nào. Nhưng nếu không tín Thần, một khi làm các việc báng bổ Thần linh, gây tổn hại cho người tu luyện, thì sẽ bị lẽ Trời trừng phạt, cuối cùng, người bị hại chỉ có thể là chính bản thân mình.
Theo NTDTV
Nam Phương biên dịch