Đại Kỷ Nguyên

Thiếu nữ bị gió lớn thổi bay 90 dặm, vị hôn phu không tin đòi từ hôn

Thỉnh thoảng, câu chuyện "Thiên Tứ Phu Nhân" (Phu nhân trời ban) do một cơn gió mạnh bất chợt thổi đến quả thực đã có trong lịch sử. Hình: Tranh "Thập nhị nguyệt lệnh đồ - Tháng Hai" (một phần) thời nhà Thanh. (Bảo tàng Cố cung Quốc gia Đài Loan cung cấp).

Tác giả: Thái Nguyên biên soạn

Vào ngày 10 tháng 5 năm Ất Sửu, niên hiệu Càn Long thứ mười (tức năm 1745), hôm đó trời nổi gió lớn, ban ngày bỗng trở nên tối tăm mù mịt. Tại huyện Giang Ninh (nay là thành phố Nam Kinh), có một thiếu nữ 18 tuổi họ Hàn bị gió lớn cuốn đi, thổi một mạch đến tận thôn Đồng Tỉnh, cách huyện thành khoảng 90 dặm (khoảng 52 km). Dân làng ở đó sau khi hỏi rõ họ tên và địa chỉ của cô thì đã đưa cô trở về nhà.

Bài thơ ‘Thiên Tứ Phu Nhân Từ’ cứu vãn cuộc hôn nhân

Thiếu nữ họ Hàn này trước đó đã đính hôn với con trai của Lý tú tài ở thành Đông. Chàng Lý kia nghi ngờ làm gì có chuyện một cô gái bị gió thổi xa đến 90 dặm, cho rằng trong đó ắt có gian tình, chuyện bị gió thổi chỉ là cái cớ, bèn kiện cô gái lên quan phủ để đòi từ hôn.

Bấy giờ, tri huyện Giang Ninh là Viên Mai tiên sinh, một văn nhân nổi tiếng đương thời (tác giả của “Tử Bất Ngữ” và “Tục Tử Bất Ngữ”). Viên tiên sinh nói: “Thời xưa có chuyện phụ nữ bị gió thổi xa đến 60 dặm, anh có biết không?” Chàng Lý tỏ vẻ không tin. Viên tiên sinh bèn lấy tập “Lăng Xuyên Tập” của Hác Văn Trung Công (Hác Kinh) thời nhà Nguyên ra cho anh ta xem, trong đó có một bài thơ viết rằng:

“Bát nguyệt thập ngũ song tinh hội,
Hoa nguyệt dao quang chiếu kim thúy.
Hắc phong đương diên diệt hồng chúc,
Nhất đóa tiên đào giáng thiên ngoại.
Lương gia hữu tử thị tân lang,
Khiên thị hốt tòng Chung Kiến bối[1].
Tranh khán đăng hạ lai quỷ vật,
Vân tấn y tà đảo quan bội.
Tu du cử mục thị bàng nhân,
Y phục bất đồng ngôn ngữ dị.
Tự thuyết Ngô môn lục thập lý,
Hoảng hốt bất tri lai thử địa.
Cam tâm khẳng tác Lương gia phụ,
Chiếu khởi cao môn bảng thiên tứ.
Kỷ niên phu tế tác tướng công,
Mãn nhãn nhi tôn tận triều quý.
Tu tri kháng lệ hữu duyên phận,
Phú giả mạc cầu bần mạc khí…”
(〈Thiên Tứ Phu Nhân Từ〉)

Dịch nghĩa:
Đêm rằm tháng Tám sao đôi gặp gỡ,
Ánh trăng hoa lay động chiếu ngọc ngà.
Gió đen giữa tiệc thổi tắt nến hồng,
Một đóa đào tiên từ trời giáng hạ.
Nhà họ Lương có chàng trai là tân lang,
Nàng họ Khiên bỗng từ lưng Chung Kiến đến[1].
Tranh nhau xem dưới đèn ngỡ là quỷ vật,
Tóc mây nghiêng lệch, trâm cài ngả nghiêng.
Giây lát ngẩng đầu nhìn người xung quanh,
Y phục khác lạ, tiếng nói chẳng đồng.
Tự nói từ Ngô Môn cách sáu mươi dặm,
Mơ hồ không biết sao đến nơi này.
Cam tâm tình nguyện làm dâu nhà họ Lương,
Vua ban cho biển ngạch “Trời Ban” treo cổng lớn.
Mấy năm sau chồng làm đến tướng công,
Đầy nhà con cháu đều là bậc quyền quý.
Nên biết vợ chồng là do duyên phận,
Giàu sang chớ cầu, nghèo khó chớ bỏ…

Chàng Lý không còn lời nào để nói. Viên tiên sinh lại khuyên giải anh ta: “Hác Văn Trung Công là một bậc trung thần, sao có thể nói dối lừa người? Tuy nhiên, người phụ nữ ở Ngô Môn bị gió thổi đến năm xưa, người mà nàng kết hôn sau này lại trở thành tể tướng, e rằng cô gái nhà họ Hàn này chưa chắc đã có phúc phận đó đâu.” Chàng Lý nghe vậy mới yên lòng, hai gia đình bèn theo hôn ước ban đầu mà tổ chức hôn lễ.

Tổng đốc Doãn Văn Đoan Công (Doãn Kế Thiện) nghe được chuyện này bèn nói: “Bởi vậy mới nói, tể tướng nhất định phải dùng người có học mà làm.” Viên tiên sinh khi làm quan ở Giang Ninh đã có rất nhiều chính sách tốt đẹp. Chỉ riêng việc này, nếu không phải nhờ tiên sinh thông minh, nhanh trí, học rộng biết nhiều, dẫn chứng điển xưa để làm bằng, thì cô gái kia vừa phải chịu nỗi nhục bị từ hôn, vừa mang tiếng xấu có gian tình, ai dám chắc nàng sẽ không bị dồn đến bước đường cùng? Xem ra việc tốt mà tiên sinh tác thành thật là lớn lao thay! (Trích từ 《Vũ Song Tiêu Ý Lục》)

Một câu chuyện khác về “Thiên tứ lương duyên”, gió thổi tân nương đến – Thiên Tứ Phu Nhân

Ngôi miếu Lư Sơn ở huyện Quảng Ninh xưa nay rất linh thiêng. Miếu bị cây cối che khuất, các tượng thần trong miếu trông rất hung dữ, dù là ban ngày bước vào cũng khiến người ta rợn tóc gáy. Có người nói rằng, vào đêm thanh vắng còn nghe thấy tiếng cướp bóc. Vì vậy, một số người đi qua đây thường chọn đi đường vòng để tránh.

Tham tri chính sự (quyền lực gần tương đương tể tướng) Lương Túc, quê ông chính là ở dốc Khiên Mã Lĩnh này. Khi ông còn là một cử nhân, ông thường cùng các học trò (sinh viên của các trường phủ, huyện, tức tú tài) học tập ở đây. Lúc rảnh rỗi nói chuyện quỷ thần, có vài người khoe khoang sự gan dạ của mình, nhưng Lương công không cho là vậy. Lương công nói: “Ta có thể vào lúc chạng vạng hoặc trời âm u, đi vào miếu Lư Sơn, dạo một vòng quanh các hành lang.” Mọi người nghe ông nói vậy bèn hỏi: “Được thôi, lấy gì làm bằng chứng?” Lương công đáp: “Nơi nào ta đi qua sẽ dùng bút vạch một đường để làm dấu.”

Tối hôm sau, mọi người hẹn nhau cùng đi. Các học trò đợi ở ngoài cửa miếu, Lương công xắn tay áo đi thẳng vào trong. Khi ông vạch đến góc phía đông của ngôi miếu, ông sờ thấy một người đang dựa vào tường. Lương công ngỡ là quỷ, bèn cõng người đó ra ngoài. Các học trò tiến lại hỏi: “Ông đã thấy gì?” Lương công cười nói: “Ta đã cõng một con quỷ ra ngoài rồi, các vị có thể lấy đuốc soi xem.” Khi ánh đuốc lại gần, mọi người thấy đó là một phụ nữ xinh đẹp, nhưng trang phục lại hoàn toàn khác với phong tục nơi đây. Họ định hỏi chuyện thì nàng đã hơi thở yếu ớt, trông như người say rượu chưa tỉnh. Các học trò tưởng là quỷ hồn thật, bèn xúm lại xem.

Một lúc sau, người phụ nữ mở mắt, thấy có người vây quanh thì vô cùng hoảng sợ, hỏi: “Đây là đâu?” Các học trò giải thích cho nàng biết mình đang ở đâu, và nàng được tìm thấy trong miếu, rồi hỏi nàng rốt cuộc là người hay quỷ, và từ đâu đến. Cô gái nói: “Tôi là con gái của một gia tộc lớn ở Dương Châu, vào ngày lành tân lang đến đón dâu, khi đang ngồi trong xe ngựa trên đường thì tôi đột nhiên bị một trận gió mạnh thổi bay ra ngoài, sau đó thần trí mơ hồ, không biết vì sao lại đến nơi này.”

Các học trò vui mừng nói: “Chàng Lương chưa kết hôn, đây là thần linh từ Dương Châu mang đến cho chàng một người vợ, có thể thành hôn rồi, quả là trong cõi u minh đã có định số.” Lương công bèn đưa cô gái về nhà.

Không lâu sau, Lương công thi đỗ, chưa đầy mười năm đã thăng tiến hiển quý. Hai vợ chồng cũng sinh được mấy người con trai, sau này con cháu đầy đàn. Khi đó, có người gọi vợ của Lương công là “Thiên Tứ Phu Nhân” (Phu nhân trời ban), lời tán dương thú vị này còn truyền đến cả hoàng cung. Năm Đại Định thứ 20 đời vua Kim Thế Tông (tức năm 1180), Lương công nhậm chức Chương Đức Tiết độ sứ, sau vào triều giữ chức Tham tri chính sự. Các thuộc hạ cũ của ông vẫn thỉnh thoảng gặp ông, khi có người hỏi về gia đình, họ đều nói rằng con cháu của ông là do trời ban tặng. (Trích từ 《Tục Di Kiên Chí》)

Câu chuyện “Thiên Tứ Phu Nhân” trong 《Tục Di Kiên Chí》 này rất có thể chính là câu chuyện về người phụ nữ bị gió thổi xa sáu mươi dặm được nhắc đến trong bài thơ của Hác Văn Trung Công trong 《Lăng Xuyên Tập》 ở câu chuyện thứ nhất. Trong cả hai câu chuyện, chú rể đều họ Lương và sau này trở thành tể tướng (hoặc Tham tri chính sự có quyền lực tương đương). Sự khác biệt duy nhất là người phụ nữ trong 《Lăng Xuyên Tập》 nói mình đến từ Ngô Môn, còn người phụ nữ trong 《Tục Di Kiên Chí》 là con gái của một gia tộc lớn ở Dương Châu. Có thể đây là sự khác biệt về địa danh trong quá trình lưu truyền câu chuyện. Xin cùng đưa ra đây để tham khảo.

Chú thích [1] Điển cố “Khiên thị hốt tòng Chung Kiến bối”: Vào thời Xuân Thu, khi vua Sở Chiêu Vương tại vị, xảy ra trận chiến Bách Cử, quân Ngô xâm lược kinh đô Dĩnh. Chiêu Vương phải chạy trốn đến đất Vân, đại phu Chung Kiến đã cõng em gái của vua là Quý Mị cùng đi. Năm sau, Chiêu Vương muốn gả Quý Mị, nhưng nàng từ chối vì Chung Kiến đã từng cõng mình. Chiêu Vương bèn gả em gái cho Chung Kiến và phong ông làm chức Nhạc doãn.

Theo Epoch Times

Exit mobile version