Đại Kỷ Nguyên

Thế nào là một cuộc đời lý tưởng? Đây là 3 tiêu chuẩn của Khổng Tử

Khổng Tử nói: “Làm cho người già yên tâm an vui, bạn bè tin tưởng tín nhiệm lẫn nhau, người trẻ hoài niệm nhớ ơn, đó chính là chí hướng của ta, là cuộc đời lý tưởng nhất mà ta mong muốn”.

Cuộc đời lý tưởng nhất chẳng qua là đạt được 3 tiêu chuẩn này mà thôi.

Lão giả an chi (người già được yên tâm, an vui)

Khổng Tử nói: “Cha mẹ còn, không được đi xa, đi ắt phải có nơi chốn”.

Nguyên văn: “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương”.

Khi cha mẹ còn, tốt nhất chúng ta không nên đi nơi xa xôi. Nếu thực sự bất đắc dĩ phải đi, thì tốt nhất chúng ta phải có nơi chốn rõ ràng. Vì như vậy, cha mẹ mới có thể đứng trước cửa nhà, hướng về nơi chúng ta đến cầu nguyện, cầu phúc cho chúng ta. Có lẽ chỉ có như thế này, trong lòng cha mẹ mới có chút an ủi, yên lòng.

Năm Thiên Thánh thứ 5 đời Tống Nhân Tông, Bao Chửng từ chức Bình sự của Đại Lý Tự được bổ nhiệm làm Tri huyện Kiến Xương. Nhưng cha mẹ ông tuổi cao, không muốn rời quê hương đi theo con trai. Bao Chửng không hề do dự liền từ chức quan, trở về nhà phụng dưỡng cha mẹ, làm tròn đạo hiếu. Mấy năm sau, cha mẹ lần lượt khuất núi, ông mới lại trở lại quan trường.

Chức quan có thể có lại được, chỉ cần chúng ta có tâm, cơ hội rồi sẽ đến. Nhưng cha mẹ, đời này, kiếp này chỉ có một lần.

“An cư một chỗ, đó là đặc tính của người dân. Anh em cốt nhục gần gũi, đó là tình người mong muốn”.

Đối với cha mẹ mà nói, hiếu thuận lớn nhất, không gì bằng khi cha mẹ trong những năm tháng cuối đời, con cháu quây quần xung quanh, tận hưởng niềm vui gia đình, cốt nhục tương thân.

Có lẽ có người sẽ nói, nếu có thể, lại muốn rời xa quê hương, rời xa cha mẹ.

Người xưa nói: “Chăm sóc người già chính là để họ yên lòng”. Nếu chúng ta buộc phải rời xa cha mẹ, thì cần phải “Du tất hữu phương” (Đi phải có nơi chốn rõ ràng). Chỉ có như thế mới khiến cha mẹ mắt mờ, lưng còng mặt đầy nếp nhăn có thể yên lòng.

“Lão giả an chi” (Người già được yên vui, chăm sóc), đó là hiếu thuận lớn nhất của những người làm con.

Làm cho cha mẹ già yên tâm an vui đó là hiếu thuận lớn nhất của những người làm con. (Ảnh: youtube.com)

Bằng hữu tín chi (Bạn bè tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau)

Khổng Tử nói: “Có bạn từ phương xa đến, chẳng phải vui mừng lắm sao?”.

Nguyên văn: “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?”.

Từ khi chúng ta đến với thế gian này, chúng ta có tình cảm thân thuộc ruột rà đã biết, đó là cái duyên huyết thống đem đến cho chúng ta phần thưởng và ân điển. Nhưng bạn bè lại là chưa biết, nằm ngoài dự liệu. Chúng ta kết giao với ai, đều là ẩn số chưa biết.

Bạn tốt nhất không gì bằng “giữa bạn bè giữ chữ tín, tin tưởng lẫn nhau”.

Trong lịch sử, được người đời nghìn năm ca ngợi tình bạn, ngoài Chung Tử Kỳ và Bá Nha “Cao sơn lưu thủy” ra, thì chỉ có Quản Trọng và Bão Thúc Nha.

Quản Trọng và Bão Thúc Nha chung vốn buôn bán, đến cuối năm chia lời lãi, Quản Trọng luôn giành phần nhiều hơn. Người ngoài thấy vậy cũng bực mình thay, nhưng Bão Thúc Nha lại tin tưởng vào nhân phẩm của Quản Trọng, tin rằng Quản Trọng nhất định không phải là người tham lam chút lợi cỏn con, vì Quản Trọng gia đình nghèo khó, bất đắc dĩ mới làm như vậy.

Quản Trọng đã 3 lần làm quan, nhưng cũng 3 lần bị cách chức cho về. Có người nói với Bão Thúc Nha rằng: “Xem ra Quản Trọng là kẻ bất tài, nếu không làm sao cả 3 lần đều bị người ta đuổi về?”.

Bão Thúc Nha lại không cho là như vậy, ông tin tưởng bạn mình có tài kinh luân dọc ngang trời đất, chẳng qua là ông ấy chưa gặp được Bá Nhạc của mình mà thôi (Bá Nhạc là người nổi tiếng xem tướng ngựa, biết được thiên lý mã tuy dáng vẻ bề ngoài rất tầm thường kém cỏi).

Quản Trọng cũng đã 3 lần bị bắt đi lính, nhưng cả 3 lần ông đều trốn chạy. Có người nói với Bão Thúc Nha rằng, Quản Trọng là kẻ hèn nhát, sợ chết, nhưng Bão Thúc Nha lại hoàn toàn tin tưởng bạn mình tuyệt đối không phải kẻ tiểu nhân như thế. Sở dĩ ông ấy trốn chạy là vì ông ấy vẫn còn cha mẹ già, cần ông ấy chăm sóc.

Bất kể người khác phỉ báng gièm pha Quản Trọng như thế nào, Bão Thúc Nha vẫn kiên định tín nhiệm bạn.

Shakespeare nói: “Nếu muốn người khác thành tín, trước tiên mình phải thành tín đã”. Bão Thúc Nha đã làm được như thế.

Năm 686 TCN, được Bão Thúc Nha giúp đỡ, Công tử Tiểu Bạch đánh bại Công tử Củ, đã thuận lợi trở thành quốc quân của nước Tề. Nền chính trị nước Tề cuối cùng cũng dần ổn định. Giữa lúc mọi việc ngổn ngang chờ xử lý, Tề Hoàn Công mong muốn Bão Thúc Nha đảm nhiệm chức tướng quốc nước Tề, nhưng Bão Thúc Nha cự tuyệt. Bão Thúc Nha lại tiến cử Quản Trọng, kẻ đã suýt nữa lấy mạng Tề Hoàn Công. Bão Thúc Nha tin tưởng Quản Trọng có đủ năng lực này, và cũng chỉ có Quản Trọng mới khiến nước Tề xưng bá chư hầu.

Quả nhiên, được Quản Trọng phò tá, Tề Hoàn Công đã trở thành một Bá vương chân chính một đời.

Quản Trọng được phò tá Tề Hoàn Công cũng là do Bão Thúc Nha giúp đỡ. (Ảnh: wikipedia.org)

Năm 645 TCN, Quản Trọng bệnh từ trần. Trước khi chết, Hoàn Công nắm tay Quản Trọng hỏi: “Trọng phụ, sau khi ngài ra đi, ai sẽ đảm đương vị trí tướng quốc?”

“Tôn Thấp Bằng” – Quản Trọng nói.

“Trọng phụ, sao ngài không tiến cử Bão Thúc Nha?”  – Tề Hoàn Công không hiểu bèn hỏi.

“Bão Thúc Nha thiện ác quá phân minh, hiếu thiện thì còn được, còn ghét cái ác quá như thế, thì ai chịu được? Bão Thúc Nha hễ thấy người nào làm việc xấu, việc ác, thì cả đời không quên, đó là nhược điểm của ông ấy” – Quản Trọng trả lời.

Cũng có người nói: “Quản Trọng thật không xứng đáng bạn bè, Bão Thúc Nha xưa nay chưa từng tính toán so đo chuyện gì với ông ấy, còn tiến tử ông ấy làm tướng quốc nước Tề. Bão Thúc Nha tín nhiệm ông ấy như thế này, mà ông ấy lại không tin tưởng Bão Thúc Nha”.

Chính vì Bão Thúc Nha tin tưởng tuyệt đối không suy chuyển đối với Quản Trọng, chính vì Quản Trọng coi Bão Thúc Nha là thâm giao, chính vì xuất phát từ thành tín với bạn bè, do đó Quản Trọng mới không tiến cử Bão Thúc Nha. Mà Bão Thúc Nha cũng hiểu rõ tâm ý Quản Trọng, không có lời ra tiếng vào nào.

Nếu biết rõ người bạn tốt của mình không thể làm việc đó, mà vì cái tư của cá nhân mà đưa bạn đến chỗ nguy nạn, đó mới là tình bạn hoa hòe hoa sói.

Lev Tolstoi nói: “Muốn làm người tri kỷ chân chính, thì ắt phải tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau”.

Người tri kỷ chân chính không cần giải thích nhiều, không cần ánh mắt xác nhận, người bạn cũng hiểu rõ tất cả. Bão Thúc Nha đã làm được như thế, Quản Trọng cũng làm được như vậy.

Kỳ thực, đã là người tri kỷ thì không cần giải thích nhiều… (Ảnh: pinterest.com)

Thiếu giả hoài chi (Người trẻ hoài niệm, nhớ ơn)

Con người ai cũng có ngày về già. Khi chúng ta bước chân đến xế chiều, quay đầu nhìn lại tất cả, điều khiến chúng ta vui thích nhất không gì lớn bằng “những ân tình nhận được ở tuổi thiếu thời”.

Năm 267, Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm sách lập thái tử. Ông muốn cho vời Lý Mật, người đã từng làm Thái thú Hán Trung về làm Thái tử Tiển mã (chức quan phụ giúp thái tử). “Chiếu thư nghiêm khắc, các quan lại đã không chậm trễ, các quận huyện khẩn trương, thúc giục hạ thần lên đường, châu ty tìm đến nhà, gấp như hỏa tinh”. Chiếu thư ban xuống, các quận huyện không ngừng thúc giục. Nhưng Lý Mật lại hết lần này đến lần khác cự tuyệt.

“Hạ thần muốn phụng chiếu lên đường, thì bệnh bà nội ngày càng nặng, muốn tạm thời thuận theo tình riêng, thì bảo là không được”.

“Hạ thần Lý Mật cũng muốn ra làm quan, nhưng bà nội, người nuôi dưỡng hạ thần từ nhỏ đang bệnh nặng, cần hạ thần ở bên, hạ thần sao có để mặc bà mà không chăm sóc được?”.

Vì hiểu được cảm tạ ân tình, do đó mới biết hiếu thuận. Sở dĩ Lý Mật như thế này, đó là do ông cảm tạ ân tình của bà nội nuôi dưỡng ông từ nhỏ.

Đối với Lý Mật mà nói, ông rất may mắn, có được bà nội yêu thương ông như thế này. Đối với bà nội ông mà nói, bà cũng rất vui lòng, đã dưỡng dục được đứa cháu nội có lòng cảm ân.

Khổng Tử nói: “Làm cho người già yên tâm an vui, bạn bè tin tưởng tín nhiệm lẫn nhau, người trẻ hoài niệm nhớ ơn, đó chính là chí hướng của ta, là cuộc đời lý tưởng nhất mà ta mong muốn”.

Cuộc đời lý tưởng nhất chẳng qua là đạt được 3 tiêu chuẩn này mà thôi.

Đạt được 3 tiêu chuẩn này thì ta đã có được cuộc đời mãn nguyện. (Ảnh: historyba.com)

Khổng Từ chủ trương “hữu giáo vô loại”, nghĩa là giáo dục thì không phân biệt loại người nào, ai ai cũng có thể tiếp thu giáo dục. Học trò của Khổng Tử lên tới trên 3000 người. Từ sách “Luận ngữ” chúng ta có thể thấy, Khổng Tử dạy học sinh, chỉ là giải đáp các vấn đề thường gặp nhất trong cuộc sống hàng ngày, và nói rõ các điều kiện ắt phải có trong các mối quan hệ xã hội giữa người với người.

Khổng Tử “học bất yếm, giáo bất quyện” (Học không chán, dạy không mệt), đã khiến ông trở thành “Đại thành Chí Thánh Tiên sư”, là “Vạn thế sư biểu” của các nước Á Đông.

Đạo lý của ông hợp lý lại bình dị, dễ biết dễ thực hành, nhưng lại có thể dùng cho bản thân thì tu thân, dùng cho gia đình thì tề gia, dùng cho quốc gia thì trị quốc, dùng cho thiên hạ thì bình thiên hạ.

Nam Phương

Exit mobile version