Đại Kỷ Nguyên

Anh hùng Thuỷ Hử Lâm Xung (P.2): Gian tà hãm hại không ngăn nổi trái tim chính nghĩa hướng về Lương Sơn

Trong gió tuyết trắng xóa thế gian, mịt mù trời đất, Lâm Xung đã diễn vở kịch lớn nhất đời mình. Từ đây về sau, bức tranh đầu đội mũ dạ có tua hồng, giáo hoa treo hồ lô rượu, một mình lầm lũi đi trong gió tuyết, đã trở thành hình tượng điển hình của Lâm Xung, khắc sâu trong lòng độc giả hậu thế. 

Tiếp theo Phần 1.

Lưu Trường Khanh, nhà thơ nổi tiếng thời Đường từng viết một bài thơ có tên là: “Phùng tuyết túc Phù Dung sơn chủ nhân” (Gặp tuyết ngủ trọ ở núi Phù Dung), trong đó vẽ nên bức tranh tuyết mênh mông, ý tứ sâu xa:

Nhật mộ thương sơn viễn
Thiên hàn bạch ốc bần
Sài môn văn khuyển phệ
Phong tuyết dạ quy nhân 

Dịch nghĩa:

Chiều tối núi xanh thẳm phía xa
Trời lạnh nhà tranh bạc trắng nghèo khó
Cửa sài (làm bằng que củi) nghe chó sủa
Đêm gió tuyết người về

Dịch thơ:

Hoàng hôn thăm thẳm núi xanh
Bầu không giá lạnh mái tranh nghèo nàn
Cửa sài chó sủa râm ran
Nửa đêm gió tuyết cả gan người về

Cảnh trong tranh này làm người ta nhớ đến một câu chuyện kinh điển, nhớ đến một người. Trong “Thủy Hử” có 2 cảnh tuyết lớn ngập trời, đều là dành riêng cho Lâm Xung: “Lâm giáo đầu phong tuyết Sơn Thần miếu” (Lâm giáo đầu trú tuyết miếu Sơn Thần), “Lâm Xung tuyết dạ thượng Lương Sơn” (Lâm Xung đêm tuyết lên Lương Sơn).

Bài thơ của Lưu Trường Khanh vừa hay lại phù hợp với cảnh ấy nhất. Tác giả bài thơ này tự xưng là “Bức Trường thành về thơ ngũ ngôn”, cũng trong tâm trạng bị hãm hại, bị đi lưu đày nên đã viết ra những câu tuyệt cú này.

Lâm Xung cũng là người trầm luân lưu lạc chân trời, trải qua hành trình từ nhẫn nhục chịu đựng đến thức tỉnh. Liên tưởng đến ý tứ bài thơ của Lưu Trường Khanh càng thấy cảnh Lâm Xung đội tuyết ra đi thật thê lương, hùng tráng đầy ý thơ hơn mấy phần.

Lâm Xung đêm tuyết lên Lương Sơn (tranh Triệu Thành Vỹ)

Sự tĩnh lặng trước cơn gió tuyết 

Trước khi đến Thương Châu, Lâm Xung và hai công sai đến làm khách ở trang viên của Sài Tiến, được Sài Tiến tiếp đãi nhiệt tình. Vị Sài Đại Quan Nhân này là hậu duệ vua nhà Chu, là bậc trượng nghĩa khinh tài, lại có mối thâm giao với quan phủ địa phương. Ông trước nay thích nhất việc đón tiếp giúp đỡ các anh hùng sa cơ lỡ bước, đặc biệt là những phạm nhân như Lâm Xung phải chịu tội đi đày.

Gặp Sài Tiến, hành trình của Lâm Xung như là khổ tận cam lai, cuối cùng có thể “nở mày nở mặt” được. Trong trang viên, sư phụ của Sài Tiến là Hồng giáo đầu cứ muốn so tài võ nghệ. Lâm Xung thoái thác không được, đành phải ứng chiến. Ánh trăng trong trẻo chiếu sáng khắp nơi, hai hảo hán thi triển long tranh hổ đấu quyết liệt.

Hồng giáo đầu hùng hổ như muốn nuốt sống đối thủ, Lâm Xung lặng lẽ khiêm hòa, trên người mang gông cùm nên sau 4, 5 chiêu tự nhận thua. Sau khi Lâm Xung được tháo gông cùm, Hồng giáo đầu khí thế càng hăng, múa gậy lại đánh tới. Lâm Xung chỉ lùi bước, nhân lúc bộ pháp đối phương đã loạn liền vung gậy quét ngang tầm thấp, trúng vào ống chân Hồng giáo đầu, một chiêu mà chiến thắng.

Hồng giáo đầu chủ quan khinh địch, chỉ biết tiến lên tấn công dữ dội. Lâm Xung thì trầm tĩnh, phòng ngự chắc chắn, đợi thời cơ chín muồi mới vùng lên phản kích, lấy cơ trí thủ thắng. Xem hai người lâm trận ra chiêu, Hồng giáo đầu ra thế “lấy lửa đốt trời”, khi thế ngút trời, nhưng hoa mỹ mà không thực dụng.

Nhưng thế “vạch cỏ tìm rắn” của Lâm Xung, ẩn giấu mũi nhọn, đúng như tính tình của ông, không tranh với đời, khiêm tốn đôn hậu. Nếu chẳng phải vì cuộc tỷ thí ngây ngất này, mọi người có lẽ đã quên mất Lâm Xung là một đại anh hùng trí dũng song toàn, võ trí và võ đức của ông đều là thượng đẳng.

Sài Tiến không hổ danh là quý nhân trong mệnh của Lâm Xung, không chỉ hào phóng mở hầu bao, giúp cho mấy chục lạng bạc, còn gửi kèm bức thư đặc biệt cho quan phủ. Bức thư ấy giúp Lâm Xung sẽ sống cuộc sống an nhàn, thoải mái khi lưu đày ở Thương Châu, đó cũng là điều ông mong đợi. Cẩn thận, dè dặt chịu qua tai ương lao tù này, nếu có may mắn đợi được đến lúc đại xá thiên hạ, ông có thể nối lại duyên xưa với Trương Thị, có thể làm người dân thời thái bình với thân phận trong sạch.

Vào lao thành, Lâm Xung với tâm thái yên ổn vô sự, tuân thủ “phép tắc sinh tồn” của lao thành, bỏ tiền lấy lòng các sai dịch, không chỉ tránh khỏi 100 gậy “sát uy bổng”, lại được công việc thanh nhàn nhất là trông coi Thiên vương đường. Lâm Xung an lòng theo cảnh ngộ, mỗi ngày chỉ là thắp hương, quét dọn, sống những ngày thuận lòng bình yên.

Như vậy được hơn một tháng, Lâm Xung trải qua gia đình ly tán, kiếp nạn sống chết, dường như đã hài lòng với hiện trạng. Một hình tượng thần dũng vô song, quyết chí báo quốc, dường như đã dần dần nhạt nhòa đi. Nhưng thiên tinh hạ phàm, tất có sứ mệnh, anh hùng ẩn mình, đợi thời bay lên. An nhàn nơi đây chẳng qua vốn chỉ giống như nơi chốn dưỡng thương mà thôi. Năng lượng to lớn tàng chứa trong cơ thể Lâm Xung đang đợi chờ thời cơ vẫy vùng trời đất.

Tranh “Lửa thiêu kho cỏ” trong “Thủy Hử”

Thức tỉnh 

Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, Lâm Xung có lòng nhường nhịn, nhưng quyền thần Cao Cầu lại muốn đuổi tận giết sạch, lại phái Lục Khiêm, Phú An đến Thương Châu, ý đồ mưu hại. Lâm Xung nhờ gặp người quen cũ là Lý Tiểu Nhị mà biết trước âm mưu Cao Cầu mưu hại, nhưng cũng đành bất lực vì địch ở chỗ tối, mình ở chỗ sáng, tìm kẻ thù không được, đành phải mặc kệ việc này.

Lúc đó gần đến thời điểm khắc nghiệt nhất của mùa đông, Lâm Xung đột nhiên bị điều ra ngoài thành trông coi kho cỏ của đại quân. Đây là công việc thậm chí còn tốt hơn quét dọn Thiên vương đường nhiều, nhưng đằng sau lại ngầm chứa vô số mưu đồ giết hại.

Trên đường tới kho cỏ, trời đã đổ tuyết lớn, “Chốc lát bốn bề đường chẳng thấy, khoảnh khắc ngàn non bỗng mất tăm”. Làm xong công việc bàn giao, Lâm Xung liền vào ở trong nhà tranh, đốt củi than sưởi ấm. Vì thấy bốn bề đổ nát, bèn nghĩ chuyện tu sửa để sống qua mùa đông, nào hay cơn bão tuyết trong cuộc đời mình cũng đến trong chớp mắt.

Nguy cơ vốn ngay trước mặt, nhưng tác giả “Thuỷ Hử” lại cố ý giảm chậm tiết tấu câu chuyện, để cho Lâm Xung đi mua rượu. Chỉ thấy ông đầu đội mũ nỉ, một cây giáo hoa treo hồ lô rượu, trên mặt đất trắng tuyết bước đi đạp tan tuyết như ngọc như ngà, tìm về phía quán rượu.

Giữa đường, Lâm Xung đi ngang qua miếu Sơn Thần, liền sinh thiện niệm, phát nguyện hôm khác sẽ lễ bái. Uống rượu xong, ông lại đội tuyết ngược gió trở về, ai ngờ căn nhà tranh tuyết phủ nặng đã sập xuống, dập tắt hết lửa, trong nhà chỉ còn lại mỗi chiếc chăn bông là còn dùng được.

Bức tranh “Phong tuyết sơn thần miếu” của Nguyệt Phương Cương Niên.

Nếu không có gió tuyết, Lâm Xung cũng không đến nỗi không nơi ngủ. Nhưng chính vì đại hàn tuyết lớn, Lâm Xung mới nảy ý đi uống rượu, nhờ vậy mà thoát kiếp nạn này. Có thể thấy gió tuyết vô tình, nhưng không làm hại người vô tội, thật đúng như trong sách đã viết “Lẽ trời sáng tỏ, bảo hộ thiện nhân nghĩa sỹ” đó sao? Lâm Xung đột nhiên nghĩ tới ngôi miếu cổ kia có thể ngủ nhờ một đêm, bèn lại nhấc cây giáo hoa, hồ lô rượu đi vào trong miếu.

Kính phụng Thần, trời trợ giúp. Miếu Sơn Thần có thể tránh rét, lại có thể bảo toàn mạng. Bỗng nghe ngoài miếu tiếng động lớn vang lên từng chặp, Lâm Xung ra xem, kinh hãi thấy kho cỏ lửa cháy đùng đùng. Ông vừa định ra khỏi miếu về chữa cháy thì nghe thấy có 3 người đang nói chuyện bên ngoài miếu, bèn ở sau cửa lắng nghe. Mấy kẻ này lại là Lục Khiêm, Phú An và một sai dịch, đang dương dương tự đắc khoe khoang quỷ kế hãm hại Lâm Xung: Điều Lâm Xung đến kho cỏ hẻo lánh, rồi đốt lửa giết người, cho dù Lâm Xung có thoát chết, thì cũng không thoát tội chết tắc trách khi coi giữ kho cỏ.

Lâm Xung càng nghe lòng cành kinh sợ mà tự nhủ rằng: “Trời đã thương Lâm Xung tôi!”. Nếu không phải căn nhà tranh sập, ông sao có thể may mắn rời khỏi kho cỏ trước khi bị phóng lửa đốt. Nếu không phải tránh tuyết trong miếu cổ, ông sao có thể may mắn nghe được kế độc của lũ Cao Cầu? Nếu chẳng phải ông trời thương, e rằng Lâm Xung đã phải chết oan ở lao thành, nuốt hận đến lúc xuống suối vàng.

Hãy nghĩ xem Lâm Xung không người thân thích, không công lao danh tiếng, muốn sống đời tù nhân, không tranh với đời mà cũng không được, làm sao tránh khỏi đau lòng than thở, bi phẫn tuyệt vọng? Cuối cùng làm bạn với ông chỉ còn cây giáo hoa và hồ lô rượu mà thôi, một cái là chiến hữu trung thành nhất, một cái là lương dược tiêu sầu nhất.

Tranh màu hành lanh Di Hòa Viên: Lâm Xung phong tuyết Sơn Thần miếu.

Trong đêm tuyết tìm kiếm đường về

Lâm Xung cả đời khổ nhẫn, cuối cùng lại bị dồn vào tuyệt địa, lùi cũng không còn đường. Trong đêm gió tuyết giá lạnh thê lương, trong ngôi miếu Sơn Thần u ám, Lâm Xung dường như đã hoàn toàn thức tỉnh, trở thành một con người khác. Có lẽ cũng vì tượng Sơn Thần phong thái uy nghiêm, đã thắp sáng hùng tâm diệt ác dương thiện, thi hành chính nghĩa của Lâm Xung. Trong vẫy vùng giữa sống chết, vinh nhục, bi hoan, ông cuối cùng đã lựa chọn cho mình con đường của bậc trượng phu.

Lâm Xung gầm lên một tiếng long trời: “Nghịch tặc, mày hãy đợi đấy”, đoạn vung tay đao, đoạt liền sinh mệnh 3 người. Uống hết rượu trong hồ lô, Lâm Xung một thân một mình, chỉ xách ngọn giáo hoa, bước lên con đường đầy tuyết rơi trong đêm gió lạnh. Tuy chưa biết đi đâu, nhưng lòng ông đã cách Lương Sơn thay trời hàng đạo ngày càng gần hơn. Duyên trời run rủi, ông lại được gặp Sài Tiến một lần nữa. Nhờ Sài Tiến sắp xếp giới thiệu, Lâm Xung một lần nữa mang thư tay của Sài Tiến, không quản gian khổ tìm đường đến Lương Sơn.

Lại một ngày tuyết giăng đầy trời, mây đỏ rực che phủ, gió Bắc thổi rát, trong chớp mắt mặt đất trắng xóa như bạc. Lại là Lâm Xung một mình đi trong tuyết lạnh, đơn độc tìm nơi trở về của sinh mệnh mình. Chính là lúc:

Hoàng hôn thăm thẳm núi xanh
Bầu không giá lạnh mái tranh nghèo nàn

Nhà ở nơi nao, thân thích chốn nào? Giữa trời đất mênh mông, xa xa thấy quán rượu, anh hùng mạt lộ chẳng thể không có rượu bầu bạn, Lâm Xung đi thẳng đến quán rượu. Chén rượu rót tràn, buồn bã cũng đầy lòng. Lâm Xung ngắm nhìn gió tuyết, tâm tư, thần thái lại phiêu dạt về kinh thành. Chỉ vì gian thần hãm hại, hảo hán Lâm Xung rơi vào cảnh có nhà mà không về được, có nước mà khôn báo đáp được, hỏng phí một đời, rốt cuộc là đạo lý gì? Thế gian còn có ngày để ông rửa sạch oan tình, làm lại sự nghiệp hay chăng?

Nhân lúc tửu hứng, Lâm Xung mượn bút nghiên, trên bức tường đề thư trách lòng, tự hỏi tự đáp:

Trượng nghĩa thị Lâm Xung
Vi nhân tối phác trung
Giang hồ trì dự vọng
Kinh quốc hiển anh hùng

Dịch nghĩa:

Trượng nghĩa là Lâm Xung
Là người hết mực thuần phác trung hậu
Danh dự đã nổi tiếng khắp giang hồ
Anh hùng hiển hách khắp kinh thành, đất nước

Dịch thơ:

Trượng nghĩa ấy Lâm Xung
Chất phác tận hiếu trung
Giang hồ danh dự nổi
Non nước rạng anh hùng

Tuy nỗi oan chưa rửa, mang thân án mạng, Lâm Xung vẫn không sụp đổ, trái lại hùng tâm bất diệt, tiếp tục kiên trì niềm tin trung nghĩa, phát hồng nguyện uy chấn thiên hạ. Ông mãi tin thiên địa trường tồn, tà không thể thắng chính, trung thần nghĩa sỹ cuối cùng sẽ có con đường báo đáp quốc gia.

Lúc này, tai mắt Lương Sơn là Chu Quý vào quán thám thính tin tức, bị cuốn hút bởi bài thơ hùng tâm ngùn ngụt của Lâm Xung. Được biết ông do Sài Tiến giới thiệu, muốn gia nhập Lương Sơn, Chu Quý liền cung kính, chủ động đưa Lâm Xung lên sơn trại bái kiến thủ lĩnh.

Toàn bộ quá trình Lâm Xung bị ép buộc phải lên Lương Sơn, mỗi một bước nhìn như là ngẫu nhiên, dường như bị động tiếp nhận an bài của vận mệnh. Nhưng một niệm là duyên khởi, một ý phát sinh vạn vật sẽ thành. Sự chuyển biến và thăng hoa của tâm hồn Lâm Xung đã tiếp thêm cho ông dũng khí phá tan trở lực gian tà, được thần minh chỉ dẫn, bước tới bờ kia của anh hùng.

Giũ sạch gió tuyết trên mình, ngôi sao Thiên Hùng từ đây tỏa sáng Lương Sơn…

Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Nam Phương biên dịch

Xem thêm:

 

Exit mobile version